
n, thậm chí tùy ý cướp đoạt hàng hóa và giết hại thương nhân người Hán. Vào thời Vũ Đế, nơi thương nhân Hán triều đi qua, đãi ngộ vô cùng tốt, giống như vương công quý tộc, Hung Nô nhanh chóng tránh đi, mà hiện tại, mặc dù còn không đến mức bi thảm như vào thời Văn Cảnh, nhưng ở trong mắt người Tây Vực, bọn họ cũng chỉ là một đám thương nhân đến từ một đế quốc đang dần dần suy tàn, thường có cử chỉ khinh mạn vô lễ. Cuối cùng, bọn họ hứa hẹn: “Nguyện dốc hết tài lực ít ỏi, để trợ giúp quốc gia. Nước không mạnh tất dân chúng không được tôn trọng, mà dân chúng không có vinh hiển thì nước sao thể hưng thịnh! Thảo dân kính cẩn lấy thân thể hèn mọn này khấu đầu, cầu chúc có được một minh quân vĩ đại, trở thành bá nghiệp muôn đời!”
*Con đường tơ lụa bắt đầu từ Phúc Châu, Hàng Châu, Bắc Kinh (Trung Quốc) qua Mông Cổ, Ấn Độ, Afghanistan, Kazakhstan, Iran, Iraq, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, xung quanh vùng Địa Trung Hải và đến tận châu Âu. Con đường cũng đi đến cả Hàn Quốc và Nhật Bản. Nó có chiều dài khoảng 7 ngàn km. Năm 138 TCN, vua Hán Vũ Đế đã cử Trương Khiên đi về phía Tây, tìm người Nguyệt Chi nhằm kết đồng minh chống lại quân Hung Nô. Trải qua nhiều gian khổ, Trương Khiên đã tìm được người Nguyệt Chi ở nơi là miền Bắc Ấn Độ ngày nay, và qua chuyến đi gian khổ này ông đã tìm ra con đường tơ lụa huyền thoại. Trung Quốc là nước đầu tiên tìm ra cách trồng dâu nuôi tằm, lấy kén ươm tơ, dệt lụa sớm nhất trên thế giới, tơ lụa thời đó rất quý, chỉ được dùng cho quý tộc và là mặt hàng được vận chuyển chủ yếu trên con đường này vì thế nó có tên là con đường tơ lụa.
Lưu Tuân biết rõ rằng đằng sau bản tấu này có nhiều thâm ý, nhưng khi đọc tới những dòng cuối cùng, vẫn thấy cảm động, cảm xúc dâng trào, quả muốn rút trường kiếm, tay chỉ hướng Tây hét lớn: bọn Hồ lỗ*!
*Hồ lỗ: từ chỉ người Hung Nô.
Đám nho sinh còn đang rầm rì bàn luận, nói rằng đám thương nhân hám lợi, bọn họ làm như thế, chẳng qua là hi vọng quốc gia vì bọn họ mà mở một con đường thuận lợi, bình an để thông thương, thuận tiện cho bọn họ kiếm tiền.
Lưu Tuân hỏi Mạnh Giác: “Mạnh Thái phó nghĩ như thế nào?”
Mạnh Giác cười nhìn các vị nho sinh đang chỉ trích thương nhân hỏi: “Những thương nhân đó có phải là con dân Đại Hán hay không?”
Một quan văn mau mồm mau miệng nói: “Đương nhiên phải.”
“Bọn họ buôn bán có nộp đủ thuế hay không?”
“Đương nhiên! Nếu bọn họ dám không nộp…”
“Nếu bọn họ là con dân Đại Hán, nếu bọn họ nộp đủ thuế cho quốc gia để nuôi sống quan viên, quân đội, như vậy chẳng lẽ bọn họ không nên thỉnh cầu mong mỏi quốc gia của mình bảo vệ bọn họ hay sao?”
Mấy quan văn lắp ba lắp bắp, nói không nên lời: “Đây… Đây… Chuyện này phải bàn bạc kỹ hơn, một cuộc chiến tranh, người khổ chính là vạn thiên hạ, chỉ riêng thương nhân có lợi…”
Mạnh Giác không để ý đến bọn họ, chỉ cao giọng nói với Lưu Tuân: “Người chạm tới thiên uy Đại Hán ta, cho dù là xa ngàn dặm cũng phải giết!”
Giọng nói của Mạnh Giác dập tắt toàn bộ tiếng nghị luận, đột nhiên lúc đó, trong đại điện trở nên im ắng tới kim rơi cũng có thể nghe rõ tiếng. Trong bầu không khí yên lặng, giọng nói của Mạnh Giác giống như sắt đá rơi xuống đất, mỗi một lời tràn ngập sức mạnh: “Hán triều như vậy với xứng là Đại Hán*!” Trong ánh mắt sắc bén của hắn còn có một câu chưa nói ra: Quân chủ như vậy mới xứng là bá chủ!
*Đại hán nghĩa là to lớn.
Bách quan trên triều đình, sắc mặt khác nhau, trong không khí lưu động căng thẳng và bất an.
Lưu Tuân cưỡng chế sóng to gió lớn ở trong lòng, điềm nhiên như không mỉm cười hỏi Trương An Thế: “Trương tướng quân nghĩ như thế nào?”, nhưng ánh mắt hắn vẫn nhìn chằm chằm vào Mạnh Giác.
Trương An Thế thấy được trong ánh mắt Lưu Tuân tia sáng vừa quen thuộc vừa xa lạ. Khi Tiên đế Lưu Triệt lệnh Trương Khiên* đi sứ Tây Vực, khi lệnh Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh xuất chinh tới Hung Nô, khi lệnh công chúa Tế Quân, công chúa Giải Ưu kết thông gia với Tây Vực, trong ánh mắt cũng đều có tia sáng giống như vậy, đó là ánh mắt của một nam nhân không cam lòng với bình thường mà khát vọng một công lao đại nghiệp thiên thu, cũng là ánh mắt khát vọng quốc gia cường thịnh của một bậc quân vương vĩ đại. Ông ta cung kính khom người, không nhanh không chậm trả lời: “Nếu như hoàng thượng muốn làm một vị quân vương thanh minh hiền đức, nhất động hiển nhiên là không bằng nhất tĩnh, không quấy nhiễu dân chúng, không thiệt hại tiền của. Nhưng nếu như hoàng thượng muốn làm một quân vương vĩ đại tên tuổi sánh cùng Chu Văn Vương, Chu Vũ vương, Cao Tổ hoàng đế, Hiếu Vũ hoàng đế, như vậy hùng công vĩ nghiệp khẳng định không thể tách khỏi kim qua thiết mã**!”
*Trương Khiên: xin xem lại chú thích về con đường tơ lụa bên trên.
**Kim qua thiết mã: tạm dịch ra là giáo vàng ngựa sắt.
Hoắc Quang lập tức rèn sắt khi còn nóng*: “Từ sau khi Vệ Thanh, Hoắc Khứ Bệnh càn quét qua vương đình Hung Nô, Hung Nô đã phân hoá thành Nam Hung Nô, Bắc Hung Nô. Nam, Bắc Hung Nô không hòa hợp với nhau, thường xuyên giao chiến, nếu triều ta có thể đại phá Khương tộc, khiến cho Ô Tôn hoàn toàn quy thuận, thế lực cuối cùng