
– Không hoàn toàn là như thế! – Ba khẽ lắc đầu – Với một con chó to lớn, một con bẹc-giê chẳng hạn, Tùng sẽ không bao giờ dám đùa nghịch với cái kiểu đã đùa nghịch với Tai To. Chuyện đó chỉ xảy ra với chú cún bé nhỏ, hiền lành nhà ta. Tất cả thoạt đầu chỉ là những trò chơi vô tâm và tự phát. Nhưng lâu dần sẽ hình thành nơi đứa trẻ khuynh hướng hiếp đáp những kẻ yếu hơn mình và thói quen thích thú khi làm những chuyện đó! Và điều đó vô cùng nguy hiểm cho việc phát triển và rèn luyện nhân cách!
Những phân tích của ba khiến mẹ giật mình, cảm thấy vấn đề đột nhiên trở nên quan trọng đến mức không thể cứu vãn. Trán mẹ nhíu lại:
– Nhưng Tai To là một con chó… ba màu!
– Chuyện đó thì em khỏi lo! – Ba chuyển qua giọng khôi hài – Anh và em cũng là những sinh vật ba màu đấy thôi! Riêng con mắt đã có hai màu đen trắng, thêm màu da vàng nữa là đạt yêu cầu “ba màu” rồi còn gì!
Câu bông đùa của ba làm mẹ bật cười. Nhưng rồi mẹ nghiêm mặt lại:
– Anh định đem con Tai To cho ai thế?
Ba gật gù:
– Anh sẽ gọi điện thoại cho chú Xuân!
– Chú Xuân chồng cô Lài ư?
Mẹ hỏi nhưng không cần ba trả lời. Chú Xuân là bạn ba, cũng làm nghề viết báo. Chú Xuân rất thích nuôi chó. Nhà chú hiện nay có đến hàng chục con là ít, trong đó gần phân nửa là những con chó hoang quen sống lang thang bờ bụi, một hôm đi lạc vào nhà được chủ nhân cho ăn uống tử tế, mến người mà ở lại.
Nhưng mặc dù đã có cả chục con chó trong nhà, mỗi lần đến chơi với ba, bao giờ chú Xuân cũng nằn nì hỏi xin Tai To. Chú bảo nhà chú lắm chó nhưng không có con nào đẹp như Tai To thật. Hễ thấy nó là chú ôm vào lòng vuốt ve nựng nịu, miệng không ngớt trầm trồ:
– Ôi, chú cún đáng yêu của ta!
Xin hoài không được nhưng chú Xuân vẫn thích gọi Tai To là “của ta”. Nhỏ Hạnh trêu chú, chú bảo gọi vậy cho “hên”. Và hôm nay thì chú Xuân hên thật. Khi nghe ba bảo sẽ gọi điện thoại nhắn chú Xuân đến đón Tai To, mẹ yên tâm ngay. Ai chứ chú Xuân thì mẹ không lo. Sống với chú, hẳn Tai To sẽ được chăm sóc chu đáo!
Trưa hôm sau, ba tuyên bố quyết định đem cho Tai To ngay trong bữa cơm.
Nhỏ Hạnh giãy nảy:
– Không được! Con không chịu đâu!
Nói xong, nó buông đũa, bưng mặt khóc thút thít. Hôm qua khi kể lại mọi chuyện với ba, nhỏ Hạnh hoàn toàn không nghĩ ba sẽ đi đến một quyết định như thế.
Không chỉ nhỏ Hạnh, mặt dì khuê cũng buồn dàu dàu. Dì không vùng vằng phản đối như nhỏ Hạnh, mà nhìn ba ngẩn ngơ:
– Sao thế hở anh?
Ba nhìn Tùng, nói bằng giọng trào phúng:
– Ðơn giản là Tùng với Tai To không thể sống chung với nhau được! Người ta bảo hai con hổ không thể sống chung một rừng mà lại!
Ba cố làm ra vẻ khôi hài nhưng chẳng ai cười. Mọi người đang rầu rĩ vì sự ra đi của Tai To. Ngay cả Tùng cũng không cười, nó mím môi lại, hiểu rằng mọi chuyện thế là vỡ lở và thất thỏm không biết ba mẹ sẽ xử trí với nó như thế nào.
Nhưng dường như ba chẳng tỏ vẻ gì muốn phạt Tùng. Sau khi giải thích với dì Khuê về lý do ra đi của Tai To, ba bưng chén lên đủng đỉnh và cơm và bắt đầu nói sang đề tài khác.
Thái độ của ba cho biết câu chuyện về Tai To coi như đã xong, không cần phải bàn cãi gì nữa.
Mọi người không bàn cãi, nhưng không vì thế mà không khí bớt nặng nề. Biết mẹ, dì Khuê và nhỏ Hạnh rất yêu quí Tai To và việc Tai To ra đi chắc chắn làm mọi người nẫu ruột, ba cố kể những mẩu chuyện vui, thỉnh thoảng chêm vài lời pha trò, nhưng mọi người đều hưởng ứng một cách uể oải, gượng gạo.
Nhỏ Hạnh cứ gằm đầu vào cái chén trên tay, vừa ăn vừa sụt sịt. Dì Khuê rệu rạo nhai cơm, mắt đỏ hoe. Riêng mẹ từ đầu đến cuối không thốt một lời nào, chốc chốc lại buông ra những tiếng thở dài não nuột.
Tùng không buồn một tẹo nào trước sự ra đi của Tai To nhưng thấy ai nấy đều xụi lơ, nó bỗng đâm ra bứt rứt. Nó có cảm giác nó chính là kẻ đem lại nỗi phiền muộn cho mọi người.
Liếc lại đằng góc phòng, thấy Tai To đang nằm hiền lành, mõm gối lên hai chân trước, ngoan ngoãn chờ tới giờ ăn của mình, Tùng chợt thấy tội tội. Ừ nhỉ, thằng quỷ con này có lúc trông cũng đáng yêu ra phết!
Tai To dường như cũng linh cảm được sự ra đi của mình. Mặt nó buồn rười rượi khiến Tùng bất giác cảm thấy nao nao. Khi cả nhà ăn xong, dì Khuê đem phần cơm dành riêng cho nó đặt ngay trước mõm, thái độ của nó cũng chẳng vồ vập như mọi bữa. Tai To chỉ khẽ ve vẫy đuôi, gí mũi vào đĩa thức ăn hít hít hai, ba cái rồi ngoảnh đầu đi chỗ khác hệt như một đứa bé hờn dỗi.
Dì Khuê ngồi xổm bên cạnh, tay không ngớt vuốt ve bộ lông mềm mại của Tai To, miệng dỗ dành:
– Ăn đi cưng! Ăn đi mà!
Rồi thấy Tai To vẫn hờ hững, dì chép miệng trấn an:
– Mày đừng lo! nói vậy chứ không ai nỡ đem cho mày đâu! Ăn đi!
Dì Khuê nói với Tai To nhưng Tùng có cảm giác như dì đang trách móc mình. Nó đang nhột nhạt, chưa biết nên ngồi lại hay bỏ đi, đã nghe nhỏ Hạnh tiếp lời:
– Ráng ăn một chút đi Tai To! Rồi chị sẽ năn nỉ ba mẹ giữ cưng lại! Ở nhà này chỉ có một người ghét bỏ cưng thôi, còn những người khác ai cũng thương cưng hết ấy!
Câu nói của bà chị làm Tùng tức anh ách. Nó sầm mặt:
– Chị ám chỉ ai vậy?
Nhỏ Hạnh