Bộ Tứ – Agatha Christie

Bộ Tứ – Agatha Christie

Tác giả: Agatha Christie

Thể loại: Truyện dài tập

Lượt xem: 322315

Bình chọn: 10.00/10/231 lượt.

ợc… Như vậy càng tốt cho cả mọi người.

– Hắn ta nguy hiểm lắm ư?

– Không, vô hại thôi, hơn thế, mắc bệnh hoang tưởng là mình bị truy bức. Bệnh tâm thần cấp tính mà. Hắn toàn nói chuyện những hội kín Trung Hoa. Cuối cùng họ phải bắt giam hắn. Bọn chúng đều thế cả.

– Hắn bị giam từ bao lâu? – Poirot hỏi

– Gần hai năm.

– A! A! – Poirot vẫn giữ nguyên nét bình thản – Ông có chắc là tâm thần hắn không bình thường?

Viên giám thị cười:

– Nếu bình thường, việc gì người ta phải giam hắn lại? Người điên nào cũng nói là mình bình thường, ông lạ gì.

Poirot không nói nữa, dẫn viên giám thị đến xem cái xác, và ông ta nhận diện ngay. Con người đã chai lỳ ấy nói:

– Thế là xong hết. Giờ tôi phải đi lo các thủ tục. Ông không phải vướng bận vì cái xác này bao lâu nữa. Nếu có điều tra, chắc ông sẽ phải ra làm chứng. Nhưng chỉ thế thôi. Xin chào.

Sau một cái nhăn mặt đặc biệt, hắn ta rút lui.

Vài phút sau, Japp tới. Viên thanh tra của Scotland Yard vẫn như mọi ngày, nhanh nhẹn và vui vẻ.

– Nào ông Poirot, tôi giúp được việc gì nào? Tưởng ông đã đi tới những bãi san hô của một hòn đảo xa xôi nào rồi.

– Japp thân mến, tôi muốn biết anh đã gặp con người tôi sắp chỉ anh xem chưa.

Poirot dẫn thanh tra vào trong phòng, nhìn cái xác nằm trên giường. Thanh tra nói nhỏ, vẻ suy nghĩ:

– Xem nào, người này có vẻ không xa lạ với tôi, mà tôi vẫn tự cho là có trí nhớ tốt. Đúng rồi! Đây là Mayerling. Nếu sai xin cứ treo cổ tôi lên.

– Nhưng Mayerling là ai?

– Một đội viên trong đội cảnh sát mật; không phải của Scotland Yard. Hắn được phái ra nước ngoài cách đây năm năm, từ đó không ai còn nghe nói đến hắn. Chúng tôi tưởng hắn đã bị thủ tiêu.

Khi Japp đã ra về, Poirot nói với tôi:

– Thêm một bằng chứng nữa. Vậy mà thằng cha này có vẻ như chết một cái chết tự nhiên.

Anh gầm gừ một cách bực tức, rồi im lặng.

Một làn gió lay động rèm cửa, khiến Poirot đột nhiên hướng chú ý về phía đó.

– Anh Hastings, tôi nghĩ rằng sau khi đặt xác lên giường anh đã mở các cửa sổ?

– Không. Nếu tôi nhớ không nhầm, cửa sổ vẫn đóng

– Sao? Cửa sổ lúc đó đóng mà bây giờ lại mở, thế là nghĩa gì?

– Tôi cho là có người đã vào đây khi chúng ta vắng mặt.

– Có thể lắm – Poirot công nhận.

Nhưng anh có vẻ như đang nghĩ điều khác.

Sau một phút suy nghĩ, anh nói:

– Thực ra không phải tôi nghĩ như vậy. Chỉ một cửa sổ mở thì tôi không nghi hoặc đến thế; điều lạ lùng là cả hai cửa sổ đều mở.

Rồi đi sang phòng bên, và thốt lên:

– Cửa sổ phòng khách cũng lại mở! Rõ ràng chúng ta đóng rồi mà.

Anh trở lại gần xác chết và cúi xuống, xem xét kỹ lưỡng khuôn mặt, miệng, mép. Lúc đứng lên, anh tuyên bố:

– Hắn đã bị bịt miệng và bị đầu độc.

Tôi kinh hãi kêu:

– Trời! Mổ tử thi, chắc rồi sẽ rõ mọi thứ.

– Sẽ chẳng khám phá ra điều gì hết. Hắn bị đầu độc bằng cách cho hít một hơi axít prussique mạnh. Tên sát nhân ép miếng bông tẩm hơi dưới mũi hắn, rồi bỏ chạy sau khi đã mở toang tất cả các cửa sổ. Axit cyanhydrique bay hơi cực nhanh, nhưng để lại một mùi hạnh đào ngai ngái. Không còn dấu tích của mùi vị đó nữa, và cũng không sẵn nghi ngờ gì đặc biệt, các bác sĩ chỉ có thể kết luận là chết tự nhiên.

Poirot cúi xuống nhìn tử thi lần nữa.

– Anh Hastings này, người này đã từng là nhân viên mật vụ. Và cách đây năm năm hắn đã ra nước ngoài.

– Nhưng hắn đã bị đưa vào nhà thương điên hai năm trời nay, vậy trong ba năm trước đó đã xảy ra những chuyện gì? – Tôi hỏi.

Poirot lắc đầu và túm lấy tay tôi.

– Chiếc đồng hồ! Hastings, hãy nhìn chiếc đồng hồ!

Cùng với anh, tôi nhìn lên bên trên lò sưởi. Chiếc đồng hồ quả lắc đã đứng lúc bốn giờ.

– Có ngươi đã đụng vào đây. Bình thường, nó phải chạy được ba ngày nữa. Tám ngày một lần mới phải lên dây.

– Người nào đó làm việc ấy nhằm mục đích gì? Để đánh lạc hướng điều tra, để mọi người cho rằng vụ án xẩy ra lúc bốn giờ?

– Không, không, anh bạn ơi! Hãy tĩnh trí lại! Hãy bắt bộ óc làm việc một chút. Chất xám ấy mà! Hãy tưởng tượng anh là Mayerling, anh nghe thấy tiếng động lạ, và có thể anh biết rằng giờ cuối của anh đã tới gần. Anh chỉ còn thời gian rất ngắn để để lại một dấu hiệu nào đó có khả năng định hướng công cuộc điều tra sau khi anh chết: Bốn giờ! Con số “4”! Bí mật của Bộ Tứ vĩ đại! Tên “Số Bốn”. “Kẻ tiêu diệt”. Hastings, anh đã hiểu chưa?

Đắm mình trong ý tưởng đó, Poirot chạy vội sang phòng bên để lại gọi điện thoại.

– Alô! Bệnh viện tâm thần Hanwell? Tôi được biết một bệnh nhân của các vị đã bỏ trốn hôm nay… Ông nói sao ạ.? Khoan đã, xin ông nhắc lại. Alô… Rõ.

Anh đặt máy, quay về phía tôi:

– Hastings, anh nghe rõ chưa? Không có vụ bỏ trốn nào cả.

– Vậy cái tay giám thị tới đây?

– Hà hà! Phải chăng tên giám thị đó là… là…

– Là ai?

– Là đích danh “Số Bốn … “Kẻ tiêu diệt”!

Tôi choáng người, nhìn Poirot. Đến lúc mở miệng được, tôi nói:

– Có một điều chắc, chúng ta sẽ nhận ra hắn nếu gặp bất kỳ ở đâu!

– Anh tưởng thế? Tôi không nghĩ như anh. Hắn có dáng điệu chậm chập, huênh hoang, mặt đỏ gay, râu mép rậm, giọng nói ồm ồm. Giờ phút này, chắc chắn hắn không còn giữ những đặc điểm đó. Còn những nét đặc trưn


Duck hunt