
chúng tôi ngược thời gian theo bước chân các anh bộ đội đi qua những chặng đường chống Pháp gian lao. Cả lớp, kể cả những đứa nghịch nhất, cũng im lặng chăm chú nghe. Một số đứa hí hoáy ghi chép. Tôi thì tò mò dòm những khẩu súng lạ mắt kê trên những bục gỗ và cố lại gần đọc những hàng chữ ghi trên đó.
Khi chúng tôi bước qua phòng thứ hai, một anh bộ đội khác đón chúng tôi. Còn anh bộ đội cũ thì quay lại phòng mình để tiếp tục hướng dẫn tốp người tham quan mới. Cứ như vậy, chúng tôi đi xem hết phòng này đến phòng khác, nhiều ơi là nhiều! Các anh bộ đội làm công việc hướng dẫn, có cả các chị bộ đội nữa, thật là giỏi, không cần nhìn vô sách mà cứ nói thao thao về các trận đánh, giới thiệu các chiến dịch và giảng giải tỉ mỉ các hiện vật trưng bày.
Tổ chúng tôi đi xúm xít cạnh nhau. Cũng như tôi, mấy đứa kia ngoảnh đầu ngoảnh cổ ngắm không thiếu một thứ gì. Thằng Quang có tật táy máy, thấy gì lạ cũng đưa tay sờ. Nó mâm mê cái nỏ, nhận xét:
– Hồi đồng khởi ngộ quá mày hén! Đánh giặc bằng mấy thứ này, tức cười ghê!
Tức cười thiệt! Kế cái nỏ là mấy ngọn giáo, mũi bằng gỗ, không biết hồi đó chiến sỹ ta sử dụng như thế nào! Tôi đang thắc mắc thì Đại chỉ một khẩu súng:
– Cây súng này ngộ chưa cà!
Tôi nhìn theo tay Đại chỉ và thấy một ống sắt giống như khúc tre có chân chống, không ra vẻ gì là một vũ khí hết. Sau khi đọc những hàng chữ ghi chú, chúng tôi mới biết đó là súng ngựa trời của du kích Củ Chi dùng trong ngày đồng khởi. Nhưng điều đó chưa lý thú bằng phát hiện của Quang:
– Súng AK báng xếp của anh hùng Lê Mã Lương, tụi mày ơi!
Truyện Lê Mã Lương trong thư viện trường đứa nào cũng đã đọc qua nên khi nghe Quang reo lên, chúng tôi vội vàng xúm lại quanh khẩu AK đã đi vào huyền thoại kia. Cả mấy đứa tổ khác cũng đổ dồn lại, trầm trồ và sờ tay vào nòng súng mát lạnh. Thằng Tú còn tính nhấc cây súng lên đeo thử nhưng thầy Dân không cho.
Lát sau, tới phiên Bảy hô hoán:
– A, súng của chị Út Tịch nè!
Vẻ mặt Bảy hớn hở như bắt được vàng. Gần đây, nó rất mê chuyện mẹ con chị Út Tịch nên khám phá ra khẩu súng của chị đối với nó cũng quan trọng như Crít-tốp Cô-lông khám phá ra châu Mỹ. Tụi tôi lại bu lại. Đó là một khẩu cạc-bin báng xếp. Nhà sinh vật tỏ vẻ nghi ngờ:
– Phải súng của chị Út Tịch thiệt không mày?
Bảy hất hàm:
– Chớ gì nữa! Mày đọc tờ giấy chú thích kia kìa!
Quang gãi cổ:
– Thì của chị Út Tịch. Nhưng chắc gì là chị Út Tịch trong sách. Sách là người ta chỉ bịa ra thôi!
Bảy lộ vẻ lúng túng. Tôi liền giải vây:
– Không phải cuốn sách nào cũng tưởng tượng ra đâu. Chị Út Tịch là nhân vật có thiệt. Chị tên là Nguyễn Thị Út, được phong anh hùng. Nhà văn Nguyễn Thi đi dự đại hội anh hùng, gặp chị Út Tịch nên về viết cuốn “Người mẹ cầm súng”.
Bảy liếc Quang:
– Đó, thấy không! Tao nói chị Út Tịch là chị Úy Tịch mà!
Nhưng cái thằng Bảy này, mặc dù gần đây đã có nhiều tiến bộ nhưng cái “máu điệp viên” vẫn còn chảy âm ỉ trong người nó. Chính vì vậy mà cây cạc-bin của chị Út Tịch cũng không giữ chân nó lâu hơn bức ảnh chụp đài quan sát trên ngọn cây của anh Thái Văn A ở đảo Cồn Cỏ. Chính từ trên đài quan sát được ngụy trang ở giữa tầng trời này, anh Thái Văn A đã bắn rơi máy bay Mỹ. Nó đứng ngắm hoài tấm ảnh, miệng hít hà:
– Ổ phục kích này hết sẩy hén mày! Phải chi tao được trèo lên đó một lần!
Nghe nó ao ước, tôi phì cười:
– Cái chân của mày đi dưới đất còn chưa xong nữa là leo lên cây!
Bảy thì vậy, còn Quang thì dán mắt vô những tấm ảnh chụp đàn voi thồ lương thực và vũ khí trên Tây Nguyên. Nó vừa coi vừa nói gì đó với Đại và nhỏ Hiền, còn hai đứa này thì vểnh tai nghe một cách chăm chú. Tôi nhón gót đi sè sẹ lại sau lưng, và đúng như tôi nghĩ, nhà sinh vật đang thao thao bất tuyệt về đời sống của voi:
– … Khi voi bị phạm lỗi, người quản tượng xử phạt rất nghiêm, có trường hợp người ta mang con voi phạm lỗi ra bãi voi làng cho những con voi khác trừng trị…
Tôi tính chọc nó chơi nhưng thấy nó đang say sưa diễn thuyết nên thôi và lảng đi chỗ khác. Đập vô mắt tôi là một cái lưỡi cuốc cũ mèm, han gỉ, lại nhỏ bằng nắm tay. Tôi vừa lạ lùng về kích thước lưỡi cuốc vừa băn khoăn không hiểu cái lưỡi cuốc vứt đi này có gì hay ho mà cũng được trưng bày. Giữa bao nhiêu thứ vũ khí oai vệ khác chung quanh, cái lưỡi cuốc cũ kỹ nằm trơ vơ một cách lạc lõng. Tôi lại gần lẩm nhẩm đọc hàng chữ chú thích: “Đây là lưỡi cuốc của bà Võ Thị Thơi ở Củ Chi đã dùng để đào hầm trong hai mươi bảy năm liền”. Tôi như không tin vô mắt mình. Trong hai mươi bảy năm, một khoảng thời gian dài dằng dặc, dài gấp đôi thời gian tôi có mặt trên đời, một người phụ nữ chân yếu tay mềm đã đào địa đạo bằng chính cái lưỡi cuốc nhỏ nhoi này. Kinh khủng! Tôi liền ngoắc mấy đứa trong tổ lại coi.
Nhỏ Hiền đọc tờ giấy liền le lưỡi:
– Thiệt là đáng nể! Hiền chắc chẳng khi nào làm được như vậy!
Con nhỏ nói lãng nhách! Nếu nó làm được như bà Võ Thị Thơi thì tên tuổi nó đã được trưng bày ở đây rồi còn gì!
Thằng Quang sờ tay lên lưỡi cuốc, chắc lưỡi:
– Đào riết, lưỡi cuốc mòn hết trơn, còn lại có chút xíu!
Khôn