
ật mình, mặc dù tôi đã chuẩn bị tinh thần khi thầy Dân kêu đến những đứa vần H như thằng Hân, thằng Hùng.
Tôi đứng bật dậy, dõng dạc :
– Mười !
Tiếng “mười” từ miệng tôi thốt ra gây chấn động không khác gì quả bom nguyên tử. Những đứa bàn trên mặc dù đã biết tôi là “cây ngữ pháp” từ năm lớp sáu vẫn quay đầu lại dòm. Đám con gái thì chắc lưỡi trầm trồ một cách lộ liễu .
Sau khi ngồi xuống, bất giác tôi quay sang nhỏ Hiền và thấy nó đang nhìn tôi, nhoẻn miệng cười. Tự nhiên tôi bỗng quên hết mọi buồn phiền trước đây và nhe răng cười khì một cái .
Hiền chìa tay :
– Huy cho Hiền mượn bài làm của Huy đi !
Tôi chỉ thằng Quang, lúc này đang ngồi đọc bài làm của tôi chăm chú không khác gì bác sỹ đang nghiên cứu vi trùng vậy .
– Vậy lát nữa Huy cho Hiền mượn nghen !
Tôi vui vẻ gật đầu, hệt như một ông tiên hào phóng sẵn sàng ban phép lạ của mình cho tất cả mọi người .
Ngay cả thằng Đại, lúc ra về cũng lại gần tôi, xuýt xoa :
– Mày học ngữ pháp “siêu” quá hén !
Lần đầu tiên, Đại khen tôi. Vì bất ngờ, tôi chỉ ậm ừ trong miệng, không đáp. Nhưng trong lòng tôi, nỗi bực tức đối với nó đã giảm đi một nửa .
– Sắp tới Huy kèm ngữ pháp cho những bạn yếu trong tổ được không ?
Cũng lần đầu tiên, Đại “nhờ vả” tôi, dù không nhờ vả cho bản thân mình nhưng cũng là nhờ vả.
Tôi gật đầu, kiêu hãnh :
– Được thôi! Khó gì môn ngữ pháp !
Ngoài miệng thì nói câu đó nhưng trong bụng tôi lại nghĩ câu khác: “Phải chi môn toán mình cũng học ‘siêu như môn ngữ pháp thì khoái biết mấy !”.
Cái câu nói thầm trong bụng đó làm tôi trằn trọc suốt đêm
Phần 8
Thế rồi, theo như thông lệ hàng năm, sau những tuần đầu dành cho việc ổn định lớp, nhà trường phát động phong trào xây dựng đôi bạn cùng tiến, mở đầu một quá trình thi đua thật sự.
Mỗi năm, cứ đến dịp này, lớp tôi xôn xao cả lên. Về việc chọn bạn học chung bao giờ cũng gây ra lắm tranh cãi.
Thường thì giáo viên chủ nhiệm chia số học sinh trong lớp ra làm bốn loại trên bảng: giỏi, khá, trung bình, yếu, căn cứ vào bản xếp loại cuối năm học trước. Theo đó, cứ một học sinh giỏi đi kèm với một học sinh yếu, học sinh khá bắt cặp với học sinh trung bình. Lý thuyết thì đơn giản như vậy nhưng việc thực hiện không phải lúc nào cũng suông sẻ. Thứ nhất, không phải học sinh nào cũng đồng ý với bản xếp loại năm ngoái, mặc dù sự xếp loại này đã được ghi vào học bạ đàng hoàng. Có những đứa nhất quyết không chịu nhận mình là khá mà cứ nằng nặc đòi tụt xuống hạng trung bình để khỏi phải nhận trách nhiệm “đỡ đầu” một học sinh trung bình khác. Trở ngại thứ hai là vấn đề tình cảm. Có những đôi bạn chơi thân với nhau từ trước, bây giờ cứ muốn học chung với nhau chớ không chịu tách ra. Nhưng kẹt một nỗi, hai đứa đều là học sinh giỏi hoặc đều là học sinh yếu nên không thể để như vậy được. Bắt chúng chịu “chia tay” nhau quả không phải dễ.
Lại có trường hợp đứa này chọn học với đứa kia nhưng đứa kia không chịu mà lại chịu đứa khác. Trong khi đứa khác đó thì lại thích một đứa khác nữa. Cái vòng lẩn quẩn, rối rắm đó lan ra theo dây chuyền và xoay vòng vòng quanh lớp khiến giáo viên chủ nhiệm phát nhức đầu.
Nhưng rồi cuối cùng đâu cũng vô đó. Nhưng từ “đâu” mà đi đến “đó” đã xảy ra không biết bao nhiêu cãi vã, giằng co, thương tâm và vui nhộn. Trong tình trạng đó, có những đôi bạn cùng tiến chẳng tiến được một chút xíu nào. Ở trong lớp thì đứa ngồi tít bàn trên, đứa ngồi tận bàn dưới, chẳng có cơ hội trao đổi với nhau. Khi ra chơi thì đứa nào cặp kè với bạn đứa đó, mặc kệ cái đứa “cùng tiến” với mình. Về nhà thì chẳng ai với ai, một là chúng vốn chẳng chơi thân nhau, thứ nữa là nhà chúng chẳng gần nhau. Vì vậy mà suốt cả một năm học, đứa khá cứ việc khá, đứa yếu cứ việc yếu, chẳng ai làm phiền ai.
Có lẽ thầy Dân thấy được điều đó nên năm nay lớp tôi không xây dựng đôi bạn cùng tiến theo kiểu đó nữa. Theo gợi ý của thầy, chúng tôi xây dựng đôi bạn cùng tiến ngay trong tổ học tập của mình, và lấy tổ học tập làm đơn vị thi đua.
Như vậy, đôi bạn cùng tiến được ngồi chung bàn với nhau, có điều kiện gần gũi, trao đổi hàng ngày, thúc đẩy nhau học tập. Và ngoài việc giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đôi bạn này còn có trách nhiệm góp phần vào sự đi lên của tổ chứ không tách rời khỏi “số phận” của tổ như những năm trước. Do thực tế đó, trách nhiệm của tổ trưởng là phải kiểm tra kết quả học tập của những đôi bạn cùng tiến trong tổ. Trước đây, lớp phó học tập làm nhiệm vụ này. Và kết quả là, sau một thời gian theo dõi không xuể cùng một lúc trên hai mươi cặp “đôi bạn cùng tiến”, lớp phó học tập đành buông xuôi luôn.
Đúng ra thì không phải cách làm của thầy Dân hoàn toàn trôi chảy. Do cách sắp xếp chỗ ngồi “nhỏ trước lớn sau”, có những tổ hầu hết là học sinh yếu, ngược lại có những tổ dồn toàn học sinh khá. Lại phải đổi chỗ một lần nữa. Tuy nhiên trường hợp này không nhiều.
Thằng Tuấn tổ trưởng tổ bốn, thình lình đứng lên nói:
– Thưa thầy, mỗi tổ năm người, như vậy lẻ một người ạ !
Thầy Dân gật đầu:
– Đúng rồi, lẻ một người! Do đó các em phải chia một nhóm hai người, một nhóm ba n