
suối chảy bao
quanh, thật mát mẻ, đơn sơ không gì sánh được. Tuy biết rằng đây không
phải là mấy gian nhà tranh trong bài “Mao ốc vị thu phong sở phá ca”
(Bài ca về ngôi nhà tranh bị gió thu tốc) nổi tiếng của Đỗ Phủ, nhưng
lại quá đỗi thân quen. Ví như ngôi nhà tranh này xây ở nơi khác, cùng là ngọn cỏ cành cây ấy, nhưng không thể ấp ủ ra mùi vị như ở nơi đây. Bởi
vì nơi này toát lên một phong vận rơi rớt lại từ thời Đường, chỉ có ở
thảo đường của Đỗ Phủ, nhà tranh của Thi thánh, mới có thể lĩnh ngộ được cảnh giới cao thượng “Anh đắc quảng hạ thiên vạn gian, Đại tí thiên hạ
hàn sĩ câu hoan nhan” (Ước được nhà rộng muôn ngàn gian, khắp thiên hạ,
kẻ sĩ nghèo đều hân hoan[13'>), thấu hiểu được nỗi lòng rộng lớn thương
xót thế gian của Đỗ Phủ. Sau cơn kinh tâm động phách, là một vùng yên
tĩnh trúc biếc gió trong. Cảnh tượng điền viên thư thái: sân rào, vườn
rau, giếng cổ, bàn đá… tuy chưa từng thấy, nhưng tựa như đã quen biết từ ngàn năm.
[13'> Trích bài “Mao ốc vị thu phong sở phá ca” của Đỗ Phủ, Khương Hữu Dụng dịch.
“Hoa kinh bất tằng duyên khách tảo, bồng mông kim thủy vị quân khai.” (Chưa
vì khách quét lối hoa, cửa bồng nay mới mở ra vì người[14'>) Nhìn xuyên
qua cánh cửa sổ bằng gỗ giản dị, bên trong hết sức thô mộc, tĩnh mịch. Ở thảo đường cách xa phiền lo sầu muộn này, nghìn năm trước chắc chắn đã
từng có một bức tranh an nhàn tĩnh lặng như thế. Đỗ Phủ và người bạn cũ
Nghiêm Vũ ngồi uống rượu trước bàn, người vợ già của ông đang hâm rượu
bên lò, đứa con gái nhỏ đang dựa lan can buông cần câu cá.
[14'> Trích bài “Khách chi” của Đỗ Phủ, Trần Trọng San dịch.
Lá chuối cuộn tròn, bóng trúc đung đưa, còn có một chú ve thu quên cả ca
hát, chỉ mải ngắm họ đối ẩm vui cười. Mà tôi lúc bấy giờ, chỉ nguyện làm ông cụ hàng xóm của thảo đường, lụ khụ chống gậy tre, đeo một bình rượu cũ, khẽ gõ cửa sài, nói rằng: Lão hủ mang theo bình rượu lâu năm, cùng
uống mấy chén, có được không? Thảo đường lúc này ngừng hết lại mọi lời
than thở. Còn giấc mộng xưa Trường An của Thi thánh, cũng ngả nghiêng
trong ly rượu, say mãi không tỉnh.
Rốt cuộc thảo đường vẫn không
thể là mái ấm của cuộc đời Đỗ Công Bộ, ông trước sau vẫn thuộc về nhân
gian khói lửa chiến tranh liên miên, đã định sẵn kết cục như cỏ bồng
phiêu bạt. Ông đi rồi, mang theo trái tim lo lắng cho bách tính lê dân,
rời xa khói thảo đường thô lậu này. Không biết, chuyến đi đó có phải là
con đường nhỏ tường đỏ ngõ hẹp, trúc rợp lối đi này không? Không biết,
dòng nước bèo trôi lãng đãng năm đó, đã già đi biết mấy tháng năm?
Chỉ là chuyến đi này sẽ không thể nào quay lại, còn thảo đường sẽ trở thành cố hương vĩnh viễn cho linh hồn ông. Cho dù là nghìn năm sau, hoặc trải qua nghìn năm nữa, những người đến đây, hoặc là những người chưa từng
đến, đều biết rằng, ở thảo đương của Thành Đô đã từng có một vị Thi
thánh ở đây, tên người ấy là Đỗ Phủ.
Tạm biệt một ngày vội vã trong thảo đường. Hãy nhớ rằng, cửa sài cùng uống rượu hoa mai, chân trời góc bể hỏi anh đường về.
Thảo đường Hoán Hoa
Là máy cành lau chim én ngậm mang về thời Đường.
Là một đoạn ký ức thời gian từ nghìn năm lướt qua
Thảo đường bên suối Hoán Hoa
Đã sớm được Thi thánh Đỗ Phủ
Viết thành một tập thơ giản dị
Đường hoa, cửa gỗ, đập nước, cầu đá
Phong cảnh mộc mạc biết bao
Đủ để an ủi trái tim sinh chẳng gặp thời
Giậu trúc nhà tranh
Mở toang nỗi lòng mênh mông
Chở che cho muôn ngàn hàn sĩ
Non nước nhàn tản của Thành Đô khi ấy
Đẹp hơn mộng tưởng huy hoàng của Trường An
Có thế dạy mây trắng buông cần câu cá
Có Thế Âmời hoa mai nâng chén đối ẩm
Trên chiếc bàn sạch sẽ
Bày một ly rượu nồng người vợ già đã hâm
Bên lan can cũ kỹ
Thả chiếc cần câu của người và con nhỏ
Trên bàn cờ
Còn một ván cờ dang dở
Của người và bạn hữu năm nào
Nghìn năm trước
Thảo đường Thành Đô là thế
Nghìn năm sau
Thảo đường Thành Đô vẫn thế
Cho dù thi nhân đến đây
Hay là đã đi
Thảo đường vẫn mãi là cố hương của linh hồn người
Cho dù là người tha phương quay về
Hay là lữ khách
Cánh cửa ấy
Trước sau vẫn mở rộng đón người
Tử Cấm Thành được
cả thế gian ngưỡng mộ, đã từng ngạo nghễ cúi nhìn thiên hạ, hô mưa gọi
gió. Đến nay nó chỉ còn là một thành trì trống rỗng, cô đơn lặng lẽ soi
bóng chính mình. Nhìn vào tòa hoàng thành này mới phát hiện, những thứ
rút ra được chẳng qua chỉ là một vài mảnh vỡ rơi rớt của thời gian, thứ
lấp đầy lại chính là những hồi ức dạt dào như nước. Hết thảy thành bại,
đều có số kiếp, đế vương có số mệnh của đế vương, hoàng thành có nhân
quả của hoàng thành. Lịch sử như một bộ kinh thư không chữ, đặt trên
chiếc bàn rộng lớn của năm tháng, cần phải đọc nó bằng cả trái tim. Giữa vòng luân hồi định mệnh, chúng ta nhìn khách đến khách đi, duyên khởi
duyên diệt.