
u là một mệnh lệnh. Sau khi tắm rửa xong, tôi vội mặc chiếc quần
lụa đen ngắn vào. Bà ta ngồi nheo mắt, cười làm rung rung hai tảng mỡ của đôi
gò má bóng nhẫy, ngắm tôi hồi lâu.
- Tươm da! Sạch sẽ thơm tho như vậy mới có
thể hầu khách được. Chứ đứng gần người ta mà hôi như cú thì họ gõ chai lên đầu
biết không" Mà trông mày mặt mũi cũng sáng láng đấy. Có chữ nghĩa gì bỏ
túi không?
- Dạ, cháu đã đỗ xép-phi-ca
(tiểu học) tháng sáu năm ngoái.
- Thiệt chứ? Trời, thằng này giỏi đa? Mới
mười bốn mười lăm tuổi mà đã dỗ phi-ca thì giỏi lắm. Ờ, hồi tao còn con gái, có
một ông giáo phica chú ý đến tao, nhưng duyên trời không định: Chà, ngày xưa đỗ
phi-ca là đã nên ông nọ ông kia rồi. Khổ cho mày, gặp thời buổi loạn ly!... Thế
ba má cháu đâu?
- Dạ, ở xa lắm! - tôi đáp một cách miễn
cưỡng..
Thấy tôi không muốn nói, bà ta cũng thôi
không hỏi. Bà ta vốn là người khôn ngoan, lịch thiệp và từng trải, luôn luôn
đoán trước ý mọi người, biết lúc nào nên nói, lúc nào nên không và nên chấm dút
câu chuyện ở chỗ nào. Điều này, tôi nhận ra trong những đặc tính của bà ta chỉ
qua vài ngày sau thôi.
Kể ra thì khách rượu của quán rượu dì Tư Béo
không thiếu hạng nào. Những tay vô công rồi nghề, la cà ngồi tán dóc ốt ngày
cũng có. Những người tản cư, cắm thuyền tạt lên uống chén rượu rồi quảy qua đi
ngay cũng có. Bọn con buôn vào ngồi chỉ cốt lấy chỗ gặp gỡ, trao đổi luồng hàng
đương khan hiếm và để kiếm món xào nướng khoái khẩu hơn là vì cần nên đôi khi,
một vài người lính Cộng hòa vệ binh có tuổi lén rời chỗ trú quân vào làm một
cốc rượu khan, trước khi ra khỏi quán cứ đưa ống tay áo chùi ria mép và dặn đi
dặn lại tôi: "Này, chú em, hễ có ban chỉ huy đến hỏi thì nói không có ai
tới uống rượn đây cả nhé! Nhớ nhé".
Chỉ trong vài hôm, tôi đã quen mặt hầu hết
những đệ tử Lưu Linh của xóm chợ này. Nhưng trong đám người thường lui tới đây,
tôi chỉ đặc biệt chú ý có hai người.
Một
là lão Ba Ngù. Dường như lúc nào cũng có lão túc trực trong quán. Nói cho đúng
thì lão ta cũng không phải là tay mạnh rượu. Nhưng lão có thể lai rai uống được
ốt ngày. Những chuyện tiếu lâm, những chuyện giang hồ mã thượng lão kể đi kể
lại với mọi người, tôi nghe đến thuộc làu những vẫn thích nghe. Bởi mỗi lần kể,
lão thường hay thắt thêm vào những chi tiết bất ngờ khiến tôi phải cười bò ra;
hoặc cũng có một đôi chỗ mà lần trước kể dài dòng, lão đã biết khéo léo thu vén
bỏ đi cho câu chuyện thêm tròn trĩnh, dễ nghe hơn. Những lúc đông khách, lão
đứng dậy nhường chỗ cho người mới tới. Đôi khi lão còn bưng hộ bát thừa giúp bà
chủ quán.
Dì
Tư béo mến lão vì cái tài đưa chuyện và giữ khách không công của lão, nên thỉnh
thoảng bà ta cũng đãi lão cút rượu kèm theo một con khô cá lạt nướng. Ai mời
rượu. lão đều uống, không từ chối. Nhưng chỉ uống một chén con cho vui bụng
ngươi ta thôi. Không bao giờ lão uống đến chén thứ hai. "Mình là người
biết tự trọng. Mình có phải là thằng già nát rượu đâu? " Lão thường lè nhè
nói một mình như vậy. Cứ mỗi người một chén rượu mời, mỗi ngày đêm lão Ba Ngù
có thể uống tính ra đến một, hai lít? Lão luôn luôn cởi trần, áo chỉ dể vắt hờ
bên vai, bảo: "Để vầy cho nó mát". Lão chỉ mặc độc chiếc quần đùi: da
mặt, da lưng đỏ như cua luộc. Dường như bấm vào bất cứ chỗ nào trong thân hình
lão cũng có thể chảy rượu ra ngay được...
Đó là người thứ nhất.
Người
thứ hai là Tư Mắm. Không biết y ở đâu, tên thật là gì. Chỉ biết rằng y thường
chở mắm lóc, mắm trê đôi khi chở cả dừa khô và bí rợ trong một chiếc ghe lườn
bán dọc theo các xóm bờ kênh, nên đồng bào gọi y là Tư Mắm. Còn người đàn bà
chạc ba mươi tuổi mà Tư Mắm bảo là vợ y không mấy khi bước lên bờ. Có lần, tôi
nghe thấy lão Ba Ngù che tay lên miệng bảo với dì Tư Béo: "Chà, bộ thằng
Tư Mắm có ngải hay sao mà nó chài được con nỡm đẹp quá. Không phải vợ hắn đâu.
Dứt khoát là không phải bà chị ạ."
Tư
Mắm ngươi dong dỏng cao nước xanh mét, tóc cắt bom-bê, mái tóc trước trán rủ
xuống tận gò má bên phải. Đôi mắt y rất bé và sắc lạ lùng, tròng mắt đảo đi đảo
lại rất nhanh và không hề nhìn thẳng vào ai bao giờ.
Một
buổi sáng, lúc tôi đang bưng rổ tôm càng xanh từ chợ về thì nghe tiếng tàu bay
vè vè từ hướng Sóc Trăng lượn đến. Người trong chợ xô nhau nhạy toán loạn.
Chiếc
tàu bay đảo hai vòng trên xóm Ngã Ba Kênh, bay rất chậm nhưng thật cao, nghiêng
qua nghiêng lại quan sát rồi thả xuống một đống truyền đơn. Những tờ truyền đơn
tủa ra, bị gió cuốn đi bay về mạn rừng tràm cách chợ có đến vài ngàn thước.
Không biết bọn giặc nói gì trong ấy. Nhưng khi tôi về đến quán thì gặp ngay lão
Ba Ngù đứng chửi oang oang:
-
Tổ cha thằng Tây. Mày đánh thì xuống đây. Chứ bay trên trời thả giấy xuống thì
cũng chưa gọi là bảnh.
Lão
níu rổ tôm của tôi lại, hỏi:
- Mày có nhặt được tờ nào đút trong này không?
- Không - tôi đáp.
- Truyền đơn nó kêu gọi Việt Minh đầu hàng đấy!
- Sao bác biết? Bác nhặt được à?
- Nhặt
đâu mà nhặt. Thằng T