
bảo Sái Tiêu:
“Sái sư phụ, sao Bạch Hổ cao số, song không cao hơn pháp thuật của sư phụ tôi. Thế này đi, tôi sẽ đưa cái tai vạ này lên núi, trên núi có sư phụ tôi trấn yểm nó sẽ không phát tác được nữa, cũng coi như cho nó một con đường sống.”
Cô ngừng lại nhìn Sái Tiêu, thấy vẻ mặt Sái Tiêu vẫn khó coi, bèn cười nói: “Sái sư phụ nuôi cái tai vạ này cũng mấy năm rồi, cơm áo gạo tiền bỏ ra cũng không ít, chúng tôi thu nhận nó, sẽ trả cho Sái sư phụ một cái hồng bao, lại tặng thêm ngài một đạo bùa linh hóa sát, vừa giải sao xấu vừa giúp ngài phát tài vượng khí, bảo đảm nửa đời sau ngài sẽ liên tục gặp phúc may.” Nói đoạn liền moi từ túi áo trong ra một tờ ngân phiếu năm lạng, đưa cho Sái Tiêu. Tờ ngân phiếu là phiếu do Nhật Thăng tiền trang ở Sơn Tây phát hành đã lâu năm, thương hiệu cũ uy tín lớn, chất bạc tốt, còn đảm bảo hoàn đủ tiền. Sái Tiêu cũng là người biết hàng, nhìn thấy ngân phiếu liền mừng rơn, vội đồng ý ngay. Ông ta mở gánh mãi võ, toàn thu về tiền lẻ, một tháng cũng chẳng kiếm nổi năm lạng bạc, lại phải nuôi một đống người. Người ta nói của đi thay người, lần này ông ta vừa được của vừa trừ tai, đâu có chuyện không mừng cho được. Lục Kiều Kiều cũng rất hoan hỉ, chỉ hiềm chưa chạy được ngay ra ngoài cửa Nam cười lớn ba tiếng, có điều lúc này không thể lộ nụ cười ra mặt, đành phải cố nuốt xuống.
Giờ một đứa bé mấy tuổi cũng phải mười lạng bạc, đứa biết làm lụng lại có sức khỏe càng đắt, từ mười mấy lạng đến mươi lạng vẫn còn là được giá. Vậy mà lần này chỉ cần năm lạng bạc đã mua được một đứa bé trai dễ sai dễ bảo, nếu không phải bản thân đang cần dùng người, bán qua tay vẫn kiếm được khối tiền.
Lục Kiều Kiều lại moi trong túi thơm ra một đạo bùa giấy vàng gấp thành hình tam giác, hỏi trà lầu xin một cái hồng bao, bỏ ngân phiếu và bùa vào, trao vào tay Sái Tiêu.
Sái Tiêu vui mừng nói: “Chao ôi, cảm ơn cô nương quá. À không phải, cảm tạ ơn cứu mạng của đạo trưởng… À không phải, đa tạ đạo trưởng và đa tạ cô nương, khà khà…”
Năm lạng bạc này là chút báo đáp của Lục Kiều Kiều dành cho người tốt bụng, nếu bản thân ông ta vì lòng ích kỷ mà đuổi đứa trẻ đi, thì một xu cũng đừng hòng lấy lại được.
Hai người giao dịch hoàn tất, cùng xuống dưới lầu, sắc trời đã bắt đầu sẩm tối.
Sái Tiêu tới trước mặt lũ trẻ, dẫn thằng bé tóc vàng lại bên Lục Kiều Kiều, xoa tóc thằng bé nói: “Này Hoàng Mao, con thu dọn đồ đạc rồi đi theo chị này ngay hôm nay đi, Sái thúc không nuôi nổi con nữa, sau này con cũng đừng trở lại đây, phải nghe lời chị đấy!”
Thằng bé tóc vàng sững sờ, ngẩng mặt lên nhìn.
Đêm hôm đó, Lục Kiều Kiều đặt tên cho thằng bé tóc vàng là An Long Nhi.
Sáng sớm hôm sau, Lục Kiều Kiều thức dậy, hút xong hai cữ thuốc, đã cơn nghiền, liền bôi son trát một lớp phấn thật dày, vận chiếc áo khoác màu lục thêu hoa đỏ sẫm, tinh thần lâng lâng, dắt An Long Nhi ra khỏi nhà. An Long Nhi đi theo sau Lục Kiều Kiều, một tay xách một chiếc làn, trong làn có ấm trà và ly trà, hạt dưa, hoa quả, tay kia giương chiếc ô tây che cho Lục Kiều Kiều.
Lục Kiều Kiều không quay đầu lại, hỏi thằng bé: “Có nhớ tên mình giờ là gì không?”
An Long Nhi trả lời: “Dạ nhớ. Là An Long Nhi.”
Lục Kiều Kiều lại hỏi: “Có nhớ mình là ai không?”
An Long Nhi trả lời: “Cháu là cháu cô, cô là cô cháu.”
“Cô là thế nào?” Đồ đạc đều nằm trong tay An Long Nhi, Lục Kiều Kiều chỉ cầm chiếc quạt tròn bằng the mỏng và một chiếc túi thơm, xưa nay cô chưa từng được rảnh tay như vậy bao giờ, nên tâm trạng rất phấn khởi.
“Cô tức là em ruột của bố cháu.” An Long Nhi theo sau Lục Kiều Kiều, tò mò quan sát đường phố Tây Quan.
An Long Nhi theo Sái Tiêu mãi võ, chỉ ra vào phía Đông thành Quảng Châu, chưa từng đến Tây thành, hằng ngày ra khỏi nhà, đi qua đi lại cũng chỉ có mười tám cái chợ thường đến, gặp ngày mưa không mở gánh thì một tháng cũng ra khỏi nhà tầm hai mươi ngày, đã quen nhìn dân cư thật thà cục mịch và quân doanh quan phủ ở phía Đông thành, giờ mới biết Tây thành còn có ngõ liễu tường hoa lòe loẹt xanh đỏ, và rất nhiều cô gái xinh đẹp hiếm khi được gặp ở Đông thành, nó trông đến hoa cả mắt.
Lục Kiều Kiều như thường ngày, hễ ra khỏi cửa là đi tới ven đầm Bạch Nga. Cô đến chỗ thuyền hoa xếp hàng rợp mắt ở ven sông, đi ra chỗ gốc cây đa có nhiều chị làm thuê, ở đợ đang tụ tập. Những người này đều làm thuê ở các chốn phong nguyệt, Lục Kiều Kiều rất quen thuộc với họ. Những người làm công này khác hẳn người làm công trong các nhà phú hộ. Người làm công trong nhà phú hộ đều là hạng ăn lương, còn những chị những bà giúp việc ở chốn phong nguyệt lại là chủ bé, góp vốn với chủ lớn mở thuyền hoa hoặc kỹ viện, họ rất thân với đám kỹ nữ, một mặt chăm lo việc ăn uống vệ sinh của khách, một mặt giao dịch ngầm cho đám kỹ nữ, ở giữa ăn hoa hồng, chia chác với chủ lớn.
Mỗi sáng, đám người làm công này đều đi chợ mua thức ăn, sau đó tranh thủ chút thì giờ rảnh rỗi túm tụm lại ven sông trò chuyện, trao đổi thông tin hành lang. Họ là những người nắm rõ nhất mọi tình huống ở chốn phong hoa tuyết nguyệt này, cô nào không thu được tiền, khách nào có bệnh hoa