Insane
Quân Vi Hạ

Quân Vi Hạ

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 325873

Bình chọn: 7.00/10/587 lượt.

ghe Lưu Bang giải bày, Hạng Vũ muốn từ bỏ ý định. Mưu thần của họ Hạng là Phạm Tăng không cam tâm, sai Hạng Trang vờ múa kiếm giúp vui, tìm cơ hội giết chết Lưu Bang. Nhưng vì Hạng Bá ngăn trở, nên không thành công.

(8) tam tỉnh lục bộ: Tam Tỉnh (chữ Hán: 三省) là tên gọi chung cho ba cơ quan quyền lực trung ương cao nhất thời phong kiến Trung Hoa, bao gồm Thượng Thư Tỉnh, Môn Hạ Tỉnh và Trung Thư Tỉnh.

– Thượng thư tỉnh: là cơ quan hành chính tối cao, chưởng lãnh bá quan trong triều, nắm giữ quyền hành chính cao nhất dưới hoàng đế, thay mặt hoàng đế thi hành quyền quản lý hành chính, trực tiếp quản lý lục bộ thượng thư.

– Trung thu tỉnh: là cơ quan quyết định chính sách, phụ trách thảo luận, soạn thảo, ban hành chiếu lệnh của Hoàng đế.

– Môn hạ tỉnh: là cơ quan thẩm định, phụ trách thẩm định, xem xét các chính sách của Trung thư tỉnh.

Thông thường, Trung thư tỉnh chịu trách nhiệm hình thành, thảo luận và soạn thảo chính sách giúp Hoàng đế. Môn hạ tỉnh thẩm tra, nếu xét thấy không hợp thì gửi trả lạ Trung thư tỉnh thảo luận lại. Nếu chính lệnh được cả hai tỉnh thông qua thì giao cho Thượng thư lệnh chấp hành. Dưới Thượng thư lệnh là Lục bộ, bao gồm:

– Lại Bộ: phụ trách kiểm tra, thăng, giáng, nhậm chức hoặc bãi miễn quan viên từ tứ phẩm trở xuống.

– Hộ Bộ: phụ trách kiểm soát thuế khoá, tài chính, ngân khố của quốc gia.

– Lễ Bộ: phụ trách thi cử, tế tự, lễ chế, giáo dục toàn quốc.

– Binh Bộ: phụ trách quân sự

– Hình Bộ: phụ trách tư pháp, xem xét điều tra các sự vụ. Cụ thể do Đại Lý Tự chịu trách nhiệm điều tra, xét xử. Nếu là án lớn thì do Hình Bộ, Ngự Sử Đài và Đại Lý Tự cùng xét xử, gọi là Tam tư hội thẩm.

– Công Bộ: phụ trách các việc xây dựng, đường xá, cầu cống.

Trưởng quan Trung thư tỉnh đời Tuỳ xưng là Nội sử lệnh, đời Đường xưng là Trung thư lệnh, phó quan xưng là Trung thư thị lang. Trưởng quan Môn hạ tỉnh đời Tuỳ xưng là Nạp Ngôn, đời Đường đổi thành Thị trung, do Môn hạ thị lang làm phó. Thượng thư tỉnh do Thượng thư lệnh đứng đầu, phó là Thượng thư bộc xạ. Do Đường Thái Tông trước khi lên ngôi từng làm Thượng thư lệnh, nên sau này không nhà Đường không còn ai được phong Thượng thư lệnh nữa, chức Thượng thư lệnh để khuyết, Thượng thư bộc xạ trở thành quan đứng đầu trong thực tế. Chỉ đến sau Loạn An Sử, do công của Quách Tử Nghi quá lớn nên mới được phong làm Thượng thư lệnh.

Trong ba tỉnh còn có các cơ quan nội bộ trực thuộc, giúp việc cho Lệnh các Tỉnh. Trung thư tỉnh có Trung thư xá nhân, chịu trách nhiệm soạn thảo chiếu lệnh. Môn hạ tỉnh có Cấp sự trung, Tán kỵ thường thị, Gián nghị đại phu, Khởi cư lang, Thập di, tất cả chuyên lo việc kiểm tra, can gián. Thượng thư tỉnh có tả hữu thừa, phân nhau quản lý lục bộ, đứng đầu các bộ xưng là Thượng thư.

Trong Tam tỉnh thì tuy rằng Thượng thư lệnh và bộc xạ có địa vị cao nhất nhưng thật ra là hữu danh vô thực, toàn bộ quyền lực nằm trong tay hai tỉnh Trung thư, Môn hạ.

(9) tam quỳ cửu khấu: Tam quỳ của khấu là quỳ ba lần, lạy chín lạy. Ý nghĩa là rất kính trọng 1 người hay 1 nhân vật nào đó. (─‿‿─) hình như cái này chú thích ở mấy chương trước rồi.

(10) trai giới: Giữ trong sạch, ngăn tham dục, như: Ngày xưa sắp tế lễ tất kiêng rượu, kiêng thịt, ngủ nhà riêng gọi là trai giới 齋戒

(11) Dĩ bất biến ứng vạn biến: hiểu theo nghĩa đen là “Lấy cái bất động để đối phó với nhiều cái manh động”. Tạm dịch vậy thôi, “dĩ bất biến” có thể hiểu là sự bình tĩnh, sự sáng suốt, và cứng rắn, không nóng vội thay đổi, “biến” động theo “vạn biến”. Người hay là người biết cách đối phó, ứng xử khôn khéo với những việc xảy ra xung quanh mình. Mà để giải quyết cho khôn khéo trước hết ta phải có lập trường vững chắc và kiên định, phải bình tĩnh và sáng suốt để nắm lấy thời cơ cũng như đưa ra những cách thức hành động. Tóm lại “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là “lấy một sự bình tĩnh, chống lại ngàn sự biến động”. Lòng ta không “biến” thì ắt không còn bất cứ “vạn biến” nào lung lạc được ta.

(12) Tết Trùng Cửu: Ngày Trùng Cửu hay còn gọi là tết Trùng Cửu, diễn ra vào ngày 9/9 âm lịch hàng năm được xuất phát từ phong tục của người Trung Quốc.

Điển tích về ngày tết này có rất nhiều:

– Đời Hậu Hán (25-250) có người tên là Hoàng Cảnh, quê ở Nhữ Nam, theo học đạo tiên với đạo sĩ Phí Trường Phòng – một người tinh thông kim cổ, có thể đoán được tương lai. Một hôm, Trường Phòng bảo Cảnh: ” Ngày mồng 9 tháng 9 tới đây, gia đình của nhà ngươi gặp phải tai nạn. Vậy đến ngày đó, ngươi nên đem cả nhà lên núi cao, tay đeo túi đỏ, đựng hột thù du (một loại tiêu), uống rượu hoa cúc, tối sẽ trở về, may ra tránh khỏi tai nạn”. Hoàng Cảnh vâng theo lời thầy. Quả nhiên, đến tối ông trở về nhà trở về thì thấy gà vịt heo chó trong nhà bị chết hết.

– Theo sách “Phong Thổ Ký” thì vào cuối đời nhà Hạ, vua Kiệt dâm bạo tàn ác, gây nên bao cảnh tang thương. Thượng Đế muốn răn nhà vua nên đã giáng một trận hồng thủy làm nhà cửa khắp nơi bị chìm xuống biển nước, động vật, người bị chết đuối nhiều không kể xiết. Nạn hồng thủy đó nhằm ngày mồng 9 tháng 9. Vì vậy mỗi năm đến ngày này, nhân dân l