Polly po-cket
Người Bình Xuyên

Người Bình Xuyên

Tác giả: Đang cập nhật

Thể loại: Truyện ngôn tình

Lượt xem: 326704

Bình chọn: 9.5.00/10/670 lượt.

dùng bè đưa về nhận chìm ở đó để ngăn tàu giặc. Mấy ông bà già ưa kể chuyện ngoài Quản Định đã đóng quân ở Lý Nhơn trước khi rút qua Đám Lá Tối Trời.

Đến đây, ông từ vụt cười xòa:

- Còn một chuyện này nữa: Vùng Rừng Sác ăn thông với miệt Chợ Đệm, nơi đây có xóm Ba Cụm chuyên nghề bối đại tài. Thuyền ghe đi qua đầy đều bị bối. Day qua day lại thì nồi cơm bắc trên cà-ràng đỏ lửa biến mất. Bọn bối ở đây lọi dưới nước giỏi như rái cá. Tôi có qua đó mấy lần. Lần nào cũng bị bối. Nhưng mình không hiểu tại sao dân Rừng Sác lại thích nghề lục lâm thảo khấu như vậy.

Ông từ vô tình đặt câu hỏi trước đám lục lâm thảo khấu chánh cống. Mọi người cười rộ. Nhưng sau cái cười vô ý thức đó, một chút đắng cay chua chát làm tê đầu lưỡi. Lão giữ đình đã khêu gợi vết thương lòng. Cả quãng đời cơ cực, tủi nhục hiện ra trước mắt họ. Sanh ra với hai bà tay trắng, họ phải bán sức lực để đổi láy bát cơm. Làm tá điền thì bị chủ đất coi như toi mọi.

Bảy Rô không thể nào quên những lời thủ thỉ của vợ mới về nhà chồng. Vợ anh đã kể lại chuyện đi Tết nhà tên chủ đất lúc chị mới lên mười. Nhà nghèo, cô bé phải mượn ái dài đi mừng tuổi chủ đất. Ba má phải mượn tiền trả góp để mua một ký hồng tươi, một cặp rượu chát cho con xách qua cúng ông bà tên chủ đất. Mới mười tuổi, nhưng cũng đã sơm biết căm tức, cô bé muốn bóp nát những trái hồng tươi, muốn đập tan hai chai rượu quý thay vì đem nạp cho vợ chồng tên ác độc khốn khiếp. Điều làm cô bé bất bình nhất là sau khi dâng quà Tết, phải lên nhà thờ lạy đủ hai mươi bốn bà thờ không sót một cái rồi mới đến chúc thọ ông bà chủ đất. Lòng căm thù ấy đã lây qua Bảy Rô; khi theo Mười Nhỏ, hễ nghe nói "đi hát" "ăn hàng" bọn điền chủ, là Bảy Rô tán thành ngay…

Đó là số phận của những người theo nghề nông. Còn những kẻ ra thành thị làm phu khuân vác thì bị nạn cặp rằn, cai thầu, đứng bên chuyên ăn chặn, ăn xới, ăn bớt trên mồ hôi nước mắt người lao động. Đó là chưa kể đến quán nhậu, tiệm thuốc, sòng bạc và nhà thổ. Không đủ tiền đóng thuế thân, họ phải sống theo kiểu "dân lậu", như thằng Chơn, thằng Chó ơ xóm "săn-chê" - Đã là dân lậu thì không được vào hương chức hội tề, không được dự tiệc đình làng, không được kiện cáo bất cứ ai, dù kẻ đó hà hiếp, áp bức mình. Trong hòan cảnh đó, không làm nghề lục lâm thì làm nghề gì để sống cuộc đời đáng sống?

Bảy Rô toan trả lời, nhưng ông từ đã đi lấy nước mưa cho bình trà thứ hai. Để thay đổi không khí, Bảy Rô đề nghị Năm Hà kể chuyện "đi hát":

- Có vụ nào làm cho làng lính Tây tà khiếp vía không anh Năm?

Năm Hà mỉm cười:

- "Đi hát" không phải là nghề của tao… Tuy vậy tao cũng biết chút đỉnh. Vùng Rừng Sác này rất thuận tiện cho giới lục lâm làm ăn. Đây là yết hầu của thành phố. Tàu buôn nước ngoài theo ngã Lòng Tàu vô Sài Gòn. Ghe thuyền từ Nam Vang hay lục tỉnh theo ngã sông Soài Rạp vô Chợ Lớn, cho nên các con kinh Cây Khô, Rạch Đỉa, Rạch Bàng ngày đêm tấp nập thuyền bè. Có những đoàn ghe chài hàng chục chiếc chở gạo, heo, bò, do tàu kéo chạy qua miễu Ông, rúc còi liên hồi nghe thật vui tai. Miễu Ông đây là miễu thờ Cá Ông, chứ không phải là thờ Ổng Bổn…

- Ông Bổn là ai vậy anh năm? - Chín Mập hỏi.

- Vùng này rất nhiều người Tàu, phần lớn là người Tiều. Họ qua đây trong nhóm mấy nghìn người "phù Minh diệt Thanh". Ông Bổn là nhà hàng hải Trịnh Hòa, chỉ huy đoàn thương thuyền trên 200 chiếc. Trịnh Hòa được thờ như vị phúc thần gọi là Tảm Bảo Công, Bổn Đầu Công, gọi tắt là ông Bổn. Sống ở đây, người Tàu vẫn quên lề thối cũ là lập hội kín, mà nổi tiếng nhất là Thiên Địa Hội. Có hai nhóm, Nghĩa Hưng - gọi là Kèo xanh và Nghĩa Hòa gọi là Kèo vàng. Nghĩa Hưng là của người Phước Kiến, còn Nghĩa Hòa là của người Triều Châu (Tiều). Có chuyện buồn cười là dân mình cũng vô Thiên Đại Hội của người Tàu. Không ai đâu xa chính ông thân của tao đây. Ông ở nhóm Nghĩa Hòa "Kèo vàng". Hồi đó tao còn nhỏ nhưng nghe lỏm các cuộc họp kín, còn nhơ tới bây giờ. Khách tới nhà luôn luôn xách dù. Dù không chỉ che nắng che mưa mà còn để làm ám hiệu. Móc dù ở cán vô trong là có người theo dõi. Đội nón cũng để làm ám hiệu. Nón úp thì ở lâu, nón ngửa thì đi liền. Nếu đi ghe thì chiếc gàu úp trên cần bánh lái là ám chỉ chủ ghe là người trong hội. Về sau tụi lính kín biết các mật hiệu, giả dạng hội viên để thâm nhập bắt bớ. Đằng mình cũng rút kinh nghiệm, hễ thấy khả nghi là truy tới cùng. Có nhiều cách truy. Chẳng hạn như quẹt một lúc năm ba que diêm cho lửa cháy phừng phừng lên, nếu là hội viên thứ thiệt thì khách sẽ đọc mấy câu thơ:

Hòn núi Diệm Sơn rất nêu cao,

Trực nhìn thấy ngọn lửa hỏa hào

Liều mình bước đại qua ngọn núi

Được gặp hiền lương kết nghĩa hào.


Ba Bay liền hỏi:

- Nếu gặp thứ giả thì sao hả anh Năm?

Năm Hà làm dấu chém gió. Ba Bay cười lớn:

- Cho "mò tôm" hả anh Năm? Hay quá!

Nhưng Bảy Rô nhắc lại đề nghị của mình:

- Anh Năm nói lòng dòng mà chưa kể chuyện "đi hát"…

Năm Hà cười:

- Không đi lạc đâu. Đi lòng vòng rồi cũng tới đó. Ông bà mình biết Thiên Địa Hội là của người Tàu, nhưng cũng vô để lần lần lái mục tiêu đấu tranh về