
t liền kia kìa!". Anh đưa lên một chiếc lá trôi trên biển. Nhưng niềm vui đi đôi với nỗi lo. Mười Trí đứng trước mũi xuồng co mấy ngón tay lại làm ống dòm. Anh vừa phát hiện đọt "ăng-ten" của một chiếc tàu tuần. Với kinh nghiệm vượt ngục bằng bè, anh ra lệnh:
- Hạ buồm!
- Cứ yên tâm, mình thấy đọt nó nhưng nó không thấy mình đâu!
Dù nói cứng vậy, tất cả đều phập phồng hồi hộp. Tàu tuần mà thấy thuyền bè của tù vượt ngục là xả súng bắn nát mới thôi. Một tiếng đồng hồ sau, tàu tuần khuất dạng. Chừng đó mọi người mới tươi tỉnh. Bảy Viễn hân hoan tâm tình:
- Về đất liền kỳ này, tao nhất định không cho tụi nó bắt lại!
Mười Trí cười:
- Làm như quyền quyết định là ở nơi mình!
Bảy Viễn hậm hực:
- Kỳ rồi bị bắt là do tao với mày quá tin tưởng nơi hai anh em Hội đồng Thì với Xã Mỹ. Hai cha đó rất tốt, nhưng tụi chỉ điểm thì ở đâu chẳng có? Kỳ này tao sẽ "mần ăn lớn"!
Mười Trí tò mò:
- Nghĩa là sao?
- Sách có chữ "cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan". Kỳ này nhất định chiếm một vùng làm sơn trại chủ. Lúc này mà không thực hiện giấc mộng Lương Sơn Bạc thì còn chờ lúc nào nữa? Nhật đang lăm le hất cẳng Pháp, cha con nó ghìm nhau, hơi sức đâu mà đối phó với mình?
Mười Trí gật gù:
- Hay! Mày định chiếm cứ vùng nào vậy?
- Tao đã chọn rồi. Tao là dân Cần Giuộc, tao sẽ chiếm vùng Cần Giuộc, Cần Đước, Nhà Bè, tức là yết hầu của thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn. Ghe thương hồ đều phải qua ngã Kinh Cây Khô để vô cầu Ông Lãnh. Tao tha hồ bắt chúng nạp tiền mãi lộ.
Năm Bé gật lịa:
- Ý đó hay lắm! Anh Bảy cho tôi làm lâu la đi!
Bảy Viễn cười:
- Được! Cho mày làm phó sơn trại. Mặt mày cũng có "ngầu" lắm đó!
Năm Bé:
- Còn anh Mười Trí, anh Bảy phong làm gì?
Mười Trí cười:
- Cọp nào rừng nấy. Tao thích làm đầu gà hơn đuôi phụng. Nếu muốn làm sơn trại chủ thì tao chọn vùng nông sâu nước ngọt hơn là miệt đồng chua nước mặn. Tao thích sông Vàm Cỏ nước ngọt quanh năm. Địa điểm lại tốt. Có gì rút vô Đồng Tháp Mười là "yên như bàn thạch".
Bảy Viễn bắt tay Mười Trí:
- Vậy là hai ta rạch đôi sơn hà. Tao chiếm vùng Rừng Sác, mày chiếm Đồng Tháp Mười. Tao theo Trương Định, mày theo Đốc Binh Kiều. Mình tránh được cảnh tranh giành ảnh hưởng như Tống Giang, Triệu Cái.
Mười Trí cười:
- Chưa bắt bài lên đã tính vùa tiền! Nhưng mày cứ yên chí lớn. Tao với mày đã uống nước đái nhau ăn thề giữa biển là anh em, thì không đời nào tao phản lời thề đó.
Bảy Viễn phấn khởi nói tiếp:
- Mình nhất định phải chiếm một giang sơn riêng biệt. Chuyện đó đâu phải mới lạ gì? Trước mình đã có người làm rồi.
- Ai vậy?- Mười Trí tò mò hỏi.
- Phạm Công Tắc chớ ai! Cao Đài đã chiếm một vùng rộng lớn ở tỉnh Tây Ninh, lấy của bá tánh xây dựng tòa thánh nguy nga như cung điện nhà vua. Mầy có tới đó chưa? Đúng như cung điện vua chúa, cũng có ngai rồng chạm trổ tinh vi…
Mười Trí cười:
- Không phải là ngai rồng mà là ngai rắn. Ngai của Đức Hộ pháp có chạm bảy con rắn chàm quạp. Tao đã có lần ngồi trên ngai đó, tính đóng vai Hộ pháp chơi, không dè mấy cha chức sắc cự nự quá. Ngồi ẩu như vậy là phạm tội "khi quân". Nhưng Phạm Công Tắc đâu có xa lạ gì với tao!
Bảy Viễn trở lại câu chuyện chiếm đất lập giang sơn riêng.
- Nối gót Cao Đài là Hòa Hảo. Thằng cha Huỳnh Phú Sổ cũng chiếm cứ một vùng rộng lớn ở Thất Sơn, truyền bá đạo mới gọi là Phật giáo Hòa Hảo rồi lấy xã Hòa Hảo làm thánh địa. Ban đầu thằng Tây đàn áp bắt bớ lung tung, nhưng về sau chúng đành khoanh tay bất lực trước một chuyện đã rồi.
Đất liền từ từ ló dạng, càng lúc càng gần. Một câu hỏi hiện ra trong đầu bốn người: "Đây là đâu? Còn là biển Đông hay họ đã bị bão đẩy qua vịnh Thái Lan?". Vào xế chiều, xuồng vô đến bờ. Bãi biển vắng ngắt. Sáu Nhị đi cả cây số gặp một lão chài mới biết đây là Rạch Gốc, gần Mũi Cà Mau. Ông lão cũng cho biết làng lính đang lùng bắt cộng sản và tù vượt ngục trong vùng.
Sau khi bàn luận nát nước, bộ ba nhất trí nằm lại đây trong khi phái Sáu Nhị về Sài Gòn liên lạc với ông Tám Mạnh, nhờ ông Tám tìm cách đưa người có thế lực xuống rước về Sài Gòn…
- Tại sao lại nhờ ông Tám Mạnh?- Năm Bé hỏi.
Bảy Viễn giải thích:
- Trong giới giang hồ, không ai phục ai ra mặt, nhưng bên trong ta phải nhìn nhận ông Tám là người đức độ, có nhiều môn đệ, đáng kể nhất là có những học trò là công chức cao cấp, tùng sự tại các cơ quan có thẩm quyền, như Huyện Bảo là chủ sự phòng tư pháp tại pháp đình Sài Gòn, như Hai Trực, sếp bót "se-nho". Cho nên nhờ ông Tám Mạnh là có lý lắm! Hai Vĩnh đã thỏa nguyện: anh vừa sắm một cỗ xe thổ mộ. Đây là loại xe lá liễu chở được sáu hành khách. Anh rất hài lòng về con ngựa hồng mới nài được của một tay nuôi ngựa đua ở Hóc Môn.
Con ngựa này chủ rất cưng vì bộ vó oai phong lẫm liệt, sắc lông đỏ sậm. Chủ đặt tên nó là Xích Thố, nhưng suốt mấy mùa liền, nó toàn chạy sau hứng bụi nên chủ gạt ra cho kéo xe cá- loại xe song mã thường dùng chở cá từ bến sông đến các chợ. Từ ngày về với Hai Vĩnh, con Xích Thố nghiễm nhiên chiếm chức vô địch trên truyến đường chợ Long Kiểng về bến đò. Bà con thích đi xe Hai Vĩnh vì