
rắng phớt lộ trên nền trời xanh xám, như lớp da dê được bọn hầu mới lột, làn hơi nước toát ra từ vết cắt, bốc lên lưng chừng trời cao, cuộn mình thành lớp sương sớm mỏng manh. Bụng bảo dạ phải tìm chỗ nào đó nghỉ ngơi, gần về trưa, mặt trời thừa sức thiêu chết người, lúc ấy không phải thời gian thích hợp để lên đường.
Lội qua một dòng sông nhỏ trong veo mà có phần nông nông, tôi tìm gò đất râm mát, tụt xuống ngựa, để ngựa nhỏ tự đi gặm cỏ, còn mình gối đầu lên bọc lương khô, đánh một giấc mỹ mãn. Mãi đến khi nắng xiên đằng Tây, rọi vào mặt khó chịu vô cùng, lúc đó tôi đành thức giấc.
Tôi lôi lương khô trong bọc ra ăn, uống hết phân nửa túi nước, đong lại đầy đủ xong xuôi mới huýt sáo gọi.
Thoáng chốc từ mờ xa vẳng tiếng vó ngựa quen thuộc, ngựa nhỏ vùng chạy về phía tôi, mũi nó thở phì phì ra điều khoan khoái. Chẳng mấy mà kìm vó dừng trước mặt, nó tỏ vẻ thân quen liếm láp đánh hơi tay tôi. Tôi cũng vuốt chiếc bờm dài, đoạn bảo nó: “Ăn no rồi chứ?” Tiếc thay nó không biết nói, song nó biết dùng ánh mắt để nói lên cảm xúc, đôi mắt to hiền hòa phản chiếu bóng hình tôi. Tôi vỗ vỗ bụng nó, bỗng nhiên ngựa nhỏ không ngoan như mọi lần. Tôi lấy làm lạ, nó bỗng hí ầm ĩ rồi nện móng loạn xạ xuống bãi cỏ, hí vang rền tỏ vẻ vô cùng bất an, lẽ nào gần đây có sói?
Trên thảo nguyên loài đáng sợ nhất phải kể đến sói, chúng tụ thành bầy đàn, chúng dám đối chọi với bầy khỉ, dân du mục đơn độc chẳng may gặp phải chúng tất bỏ mạng. Có điều giờ đương mùa thu, là lúc cỏ tươi tốt mà nước cũng dồi dào, linh dương và thỏ hoang nhan nhản khắp nơi, thức ăn cho bầy sói khá dư dật, chúng ẩn mình trên núi Thiên Hằng chẳng dễ gì kéo bầy xuống đây, chúng không thể xuất hiện ở thảo nguyên này được.
Thế mà ngựa nhỏ tỏ vẻ cáu kỉnh mãi không yên ắt có cái lý của nó. Tôi lên ngựa, tiếp tục hành trình thẳng tiến chân núi Thiên Hằng, chân núi chính là lằn giáp ranh giữa Đột Quyết và Tây Lương, mẹ sớm đã sai người gửi thư báo ông ngoại, thể nào cũng có người đứng đó chờ tôi. Mò đến nơi có dân sống vẫn an toàn hơn cả.
Thúc ngựa chạy chưa bao xa, bỗng nhiên nghe có tiếng vó ngựa, tôi đứng trên yên ngựa ngó quanh quất, thấy thấp thoáng đằng xa có một đường đen bạc tốc lên, đoán chừng có không ít người. Lẽ nào phụ vương sai người đuổi theo tôi? Cách xa quá, quả thực nhìn không rõ cờ hiệu của đội kỵ binh đằng kia. Trong lòng thấp thỏm không yên, đành hối ngựa chạy thục mạng về đằng núi Thiên Hằng. Một khi đã chạm vạch ranh giới Đột Quyết, gặp được người của ông ngoại, cha cũng không thể miễn cưỡng bắt tôi về được.
Quân đuổi theo càng lúc càng gần kề, ngựa tôi điên cuồng lao về phía trước như một mũi tên đã bắn khỏi cung, nó lồng chạy trên thảo nguyên bao la. Nhưng giữa trời đất không gì ngăn cản, dẫu sức ngựa chạy nhanh đến mấy, sớm muộn gì chẳng bị bắt kịp.
Tôi không ngừng ngoái đầu nhìn đám binh sỹ truy đuổi mình, bọn chúng theo đuôi sít sát lắm rồi, ít nhất phải tầm nghìn tên. Giữa thảo nguyên, đám kỵ binh ấy quả thật gây thanh thế kinh người, cho dù là cha tôi, chỉ e người không tùy tiện điều động nhiều người đến thế đâu, nếu quả thực đến để bắt tôi, vậy chẳng phải chuyện bé xé ra to à. Tôi nửa thúc ngựa phóng như điên, nửa khó hiểu trong lòng, thế rút cuộc là binh sỹ ở đâu ra?
Chẳng mấy chốc, vó ngựa đã cập kề chân núi Thiên Hằng, từ đằng xa, tôi loáng thoáng thấy vài đốm đen, tai văng vẳng một tiếng ngân dài, đích thị bài ca chăn cừu của người Đột Quyết đây rồi, nó vọng vào tai quen thuộc mà thân thiết vô cùng, tự nhủ hẳn đây là người ông ngoại cử đến đón tôi. Tôi liền cật lực kẹp chặt bụng ngựa, thúc nó phải chạy nhanh nữa nhanh nữa vào. Đội quân Đột Quyết cũng nhận ra tôi, họ đứng trên yên ngựa, gắng sức vẫy tay ra hiệu.
Tôi cũng khua tay ra điều chào lại, đội kỵ binh sau đuôi tôi ắt họ nhìn thấy cả rồi. Ngựa phi mỗi lúc một nhanh, mỗi lúc một cập kề, tôi trông rõ cờ trắng của Đột Quyết. Đuôi cờ buông mình dài thượt, xõa tung trước gió chiều, chẳng khác nào một con cá dập dềnh giữa không trung. Người cầm cờ kia tôi có quen, chính là thần cung Hách Thất, Hách Thất là cung thủ dưới trướng được ông tôi trọng dụng nhất. Huynh ấy thấy đám kỵ binh đuổi theo tôi đông nghìn nghịt, liền hùng hồ cắm phịch cán cờ vào giữa khe đá, rút vội cây cung sau lưng ra.
Tôi đang rạp mình trên yên ngựa phóng băng băng song cũng thấy rõ, tôi cuống cuồng thét: “Ta không biết là người của ai đâu!” Tuy chúng đuổi theo tôi sát rạt thật, nhưng tôi vẫn muốn biết rõ rút cuộc là lính phe ai phái đi.
Khi khoảnh cách giữa tôi và Hách Thất rút ngắn trong tầm 10 trượng, tôi dần nới lỏng cương ngựa, sau lưng Hách Thất có chừng mười mấy cung thủ, dưới nắng lấp lánh chao nghiêng một buổi chiều hôm, tay họ lăm lăm mũi tên màu xanh sáng lóa, một mặt nheo mắt ngắm mục tiêu đằng trước là đám kỵ binh đuổi sát nút sau tôi, một mặt thúc ngựa quây tôi vào giữa phe mình, Hách Thất nở nụ cười tươi rói chào tôi: “Kính chào tiểu công chúa.” Đành rằng tôi không phải Nữ vương của Đột Quyết, sở dĩ họ nể mặt mẹ tôi, nên ngay từ thưở nhỏ, đám tay sai dưới trướng Đại Thiền Vu Đột Quyết