
, hiền quá.
Ông mục sư nhìn mớ tóc vàng mềm mại trên đầu tôi, nét mặt lộ vẻ kinh ngạc. Mẹ hiểu, ngẩng lên hỏi:
- Nhìn gì vậy? Không nhận ra mẹ con em hay sao?
- Không nhận ra. Ông mục sư lắc đầu, mặt nghệch ra - Thằng nhỏ này, ăn tham như chó sói vậy!
Mẹ lườm ông mục sư một cái, nũng nịu:
- Nó giống ai nào?
Ông mục sư càng ngẩn người ra:
- Chẳng lẽ giống tôi? Tôi hồi nhỏ như thế nào cũng chẳng nhớ!
Ông có cái nhìn đắm đuối như mắt thỏ, bồi hồi nhớ lại chuyện xưa xảy ra cách đây hàng vạn dặm, hai giọt nước mắt ứa ra.
- Anh sao thế - Mẹ ngạc nhiên, hỏi.
Ông cười gượng, giơ ngón tay mập mạp chùi nước mắt.
- Không sao! - Ông nói- Tôi đến Trung Quốc... bao nhiêu năm rồi nhỉ?
Mẹ nói giọng không vui:
- Em lớn lên thì đã thấy anh ở dây. Anh là dân bản địa cũng như em.
Ông nói:
- Không phải, tôi có quốc tịch của tôi, tôi là sứ giả của Thượng đế, tôi còn giữ những giấy tờ có liên quan đến công việc truyền giáo của tôi. Tôi đại diện cho giáo phái Thiên Chúa giáo Thụy Điển!
Mẹ cười:
- Anh Ma này, cô em bảo anh là ông Tây giả, những cái gọi là giấy tờ của anh đều do tay thợ vẽ ở huyện Bình Độ làm hộ.
- Nói bậy.
Ông nhảy dựng lên như chịu không nổi sự sỉ nhục quá lớn, chửi:
- Đ. mẹ thằng Vu Hộ pháp!
Mẹ tỏ ý không vui:
- Anh đừng chửi ông ấy, ông ấy là chú dượng em, có ơn lớn đối với em
Malôa nói:
- Nếu lão không phải là chồng dì em thì tôi đã vặt đứt con c. của lão.
Mẹ cười bảo:
- Một quả đấm của dượng ấy chết tươi một con lừa?
Malôa buồn rầu nói:
- Ngay cả em cũng không tin tôi là người Thụy Điển thì còn mong ai tin?
Ông ngồi xổm, lấy ống điếu và bao đựng thuốc lá ra tọng đầy nõ rồi lặng lẽ hút thuốc. Mẹ thở dài:
- Kìa anh, em tin anh là ông Tây chính cống, được chưa? Anh bực với ai vậy? Người Trung Quốc không ai giống anh, mình đầy lông lá.
Trên mặt Malôa nở một nụ cười như trẻ thơ:
- Rồi cũng có ngày tôi về nước! - Ông nói, vẻ trầm ngâm - Có điều, nếu cho tôi về thật thì tôi cũng không về, trừ phi em đi cùng tôi!
Ông nhìn mẹ. Mẹ nói:
- Anh không đi, em cũng không thể đi, đành yên tâm mà ở đây thôi! Hơn nữa, anh chẳng đã từng nói rằng, chỉ cần là người thì dù là tóc vàng, tóc đỏ hay tóc đen đều là con chiên của Chúa. Có cỏ là có thể giữ được dê. Vùng Cao Mật cỏ nhiều như thế, chẳng lẽ không giữ được anh ở lại?
- Em là cỏ Linh Chi nên tôi mới ở lại, tôi còn đi đâu nữa? Malôa vô cùng xúc động nói.
Mẹ chợt kêu to:
- Đuổi nó đi!
Con lừa kéo cối xay bột nhân lúc mẹ cùng Malôa trò chuyện, ăn vụng bột mì trắng. Malôa xốc tới, đánh con lừa một bạt tai. Con lừa chạy, cối quay rào rào. Mẹ nói:
- Bọn trẻ ngủ rồi, để em rây bột cho! Anh kiếm một cái chiếu trải dưới gốc cây cho chúng ngủ. Malôa trải chiếu dưới gốc cây ngô đồng. Khi mẹ đặt tôi xuống chiếu, tôi vẫn ngậm chặt vú mẹ, không nhả. Mẹ nói:
- Thằng nhỏ này như cái thùng không đáy, gần như nó hút hết xương tủy em!
Malôa giục con lừa đi nhanh, cối xay nghiền những hạt tiểu mạch thành bột thô rơi lả tả xuống vành cối. Mẹ ngồi dưới gốc cây ngô đồng, dựng một cái giá ba chân bằng cành liễu trên một cái nong rồi treo rây bột ở chính giữa, thong thả, từ tốn, có nhịp điệu hẳn hoi, mẹ đưa đẩy cái rây cho bột mịn rơi xuống; còn trấu thì ở lại. ánh nắng lọc qua kẽ lá ngô đồng rọi xuống mặt tôi, đậu trên vai mẹ. Trong sân nhà mục sư diễn ra cảnh gia dình êm ấm. Malôa vụt vào mông con lừa bằng cành liễu không cho nó ăn vụng bột. Con lừa này là của nhà tôi, ông mục sư mượn từ sáng sớm để xay bột. Nó chạy quanh cối, dưới làn roi, lông đổi màu vì mồ hôi ướt đẫm. Có tiếng con gì kêu ngoài cổng, tiếp theo là cánh cổng hé mở, con la xinh xắn sinh cùng ngày với tôi, ló đầu vào. Con lừa mẹ nổi khùng, cất vó đá hậu. Mẹ bảo:
- Đuổi con la đi!
Mục sư Malôa chạy ra, cố sức đẩy đầu con la lùi lại. Chiếc xích sắt tuột khỏi móc. Ông mục sư vội lánh sang một bên, con la xông thẳng đến chỗ mẹ nó, rúc đầu tìm vú. Con lừa mẹ đứng yên. Mẹ thở dài, nói:
- Con vật cũng như con người, có khác gì nhau?
Khi con lừa của nhà tôi cho đứa con lai của nó bú tí ở chỗ cối xay bột trong sân nhà mục sư Malôa, là lúc Sa Nguyệt Lượng cùng các đội viên đang kỳ cọ tắm rửa cho những con lừa đục của họ. Họ lấy vải bông lau khô mình lừa, dùng lược sắt chuyên dùng chải mượt bờm và cái đuôi lưa thưa của những con lừa, rồi bôi lên một lớp sáp ong. Hai mươi tám con lừa đẹp mã hẳn lên, tinh thần phấn chấn. Các đội viên người nào cũng đeo hai bầu hồ lô ở thắt lưng, một to một nhỏ. Bầu to đụng thuốc súng, bầu nhỏ đựng đạn ghém. Bầu nào cũng được sơn ba lớp dầu ngô đồng, thành thử có tất cả năm mươi sáu cái bầu bóng loáng. Các đội viên đều mặc quần màu vàng, áo khoác màu đen, đầu đội nón tám cạnh bện bằng cây cao lương. Chóp nón của Sa Nguyệt Lượng còn đính một cái ngù bằng những dải lụa đỏ để phân biệt với các đội viên, khẳng định vị trí của anh ta. Sa Nguyệt Lượng nhìn một lượt người và lừa, tỏ ý bằng lòng, nói:
- Hăng hái lên, anh em! Cho họ thấy dội Hỏa-mai-lừa-đen của ta oai phong đến mức nào!
Nói rồi anh ta nhảy lên mình lừa, phát cho con lừa một cái vào mông. Con lừa lập tức chạy n