
quẩn lần chót ở trường đua ngựa rồi nghỉ thôi, còn đua tranh gì được nữa - ông ta háp háy mắt nhìn bà qua làn khói.
- Anh Gerald mới 43 tuổi mà - Nói xong bà mới thấy là lỡ lời.
- Nhiều người nghĩ hưu ở tuổi 40, vài người trong giới chúng tôi thì tiếc rẻ sau đó vài tuổi trong ghế xích đu.
Buổi nói chuyện đã đổi chiều và bà chẳng muốn vậy, bà sa lầy trong đó và cố vẫy vùng. Dập lửa bằng cái chổi lông.
- Có trăng kìa - bà nói rồi chạy ra cửa sổ như để vẩy chào một người bạn cũ.
- Vâng, có trăng. Bà có định nhảy lên đó không?
- Ông nói gì, ông Joyce?
- Tốt hơn là tôi nên nói rõ những gì tôi nghĩ trước tiên. Nếu tôi thắng con Mickey vào chiếc xe ngựa cũ, bà có thích đi dạo với tôi một vòng quanh hồ nước nhà máy xay tĩnh lặng không?
Bà nhìn bóng ông ta ở kính cửa sổ, một bộ mặt tự mãn đượm chút liều lĩnh. Sau 16 năm lập gia đình, bà đã quên cách ứng xử với những đàn ông khác. Nhưng cách ứng xử thì không bao giờ thực sự quên được. Giống như đi xe đạp. Chỉ đi vài vòng là lại đi vững như xưa.
- Tôi thích đi.
Con ngựa trước cái xe bây giờ khác con ngựa kéo cày buổi sáng. Ông Joyce chỉ cần phất nhẹ dây cương lên mông nó là nó quẹo mạnh đến độ muốn hất bà Sarah khỏi những khung tròn bên thành xe. Nhưng ông Joyce đã nhảy lên ghế xà ích, một tay kéo con ngựa đứng chồm trên 2 chân sau, một tay đỡ bà Sarah nằm lên gối, và họ du hành lên nguyệt điện...
Lúc bà tỉnh dậy sáng hôm sau, ánh nắng chiếu thẳng vào mặt bà. Thường thì bà xem Gerald còn nằm trong giường không, bằng cách làm ngay một công việc hàng ngày. Sau cái cựa mình đầu tiên, bà quả quyết rằng ngồi trong một chiếc xe ngựa cũ các lò xo rỉ sét, phi nước đại, cũng không chứng tỏ được còn sức thanh xuân. Bà nằm nướng một lúc, suy nghĩ về điều đó và trỗi dậy với cảm giác mình thật điên khùng, đau đớn, cảm giác này ám ảnh bà suốt ngày hôm đó, lâu lâu lại nuối tiếc đã dẹp bớt các đồ cũ linh tinh đi. Bà cũng chẳng nhớ được đã dành ra bao nhiêu phần cuộc đời để chăm sóc chúng.
Khi ông Gerald về nhà, bà hầu như vẫn như hôm trước lúc tạm biệt ra đi. Tuy bà có nổi bật hơn vì các món trang sức. Chỉ còn những bông hoa chung ở phòng khách. Chỉ khi đã ăn tối xong, Gerald đã yên vị đọc sách, ông mới hỏi:
- Sarah, cái tượng ông triết gia cổ đại Trung Quốc đâu rồi?
- Em xếp ông ấy vào phòng chứa đồ rồi. Em đem hết mấy món bề bộn choán chỗ đi nơi khác.
Ông nhìn quanh mình, xa vắng như thể cố nhớ vài nét về bức tượng.
- Vậy là em đã dẹp bức tượng đi rồi. Anh nhớ ông ấy, ông ấy gợi cho anh vài ý nghĩ.
- Ý nghĩ gì?
- À anh chẳng rõ nữa. Kiểu Khổng Tử viết ấy mà.
- Ông ấy chẳng giống triết gia gì cả - Bà nói mà chẳng có ý niệm gì về ông Khổng cả. Ông ấy là một nông dân.
- Vậy sao, thôi được, chỉ là một bất đồng nhỏ - ông mở sách.
- Những bông hoa có đẹp không, anh Gerald?
- Đẹp.
- Ông Joyce cho em đấy. Hoa mới cắt trong vườn.
- Vậy thì tốt.
- Đêm nào anh cũng phải đọc sách mới được à, anh Gerald? Em ở nhà cả ngày chẳng có ai trò chuyện, về tới nhà anh lại chúi mũ vào mấy quyển sách - khi nói tới đây bà ân hận đã nói - Em chưa nói với anh, tối qua em mời ông Joyce ăn tối.
- Vậy thì em lịch sự lắm. Ông ấy chắc là cô đơn.
- Em không nghĩ vậy. Vợ chết ông ấy càng được thanh thản.-
Gerald ngước mặt lên:
- Chính ông ấy nói vậy à?
- Ông ấy không nói đầy đủ như vậy, nhưng nói bằng thực tế.
- Ông ấy chắc là típ người đặc biệt. Bà ấy chết vì bệnh gì?
- Em chẳng nhớ, có lẽ bệnh tim.
- Ngộ đấy - ông quay trở lại với cuốn sách.
- Sau khi ăn tối ông ấy và em đi dạo trên xe ngựa. Đi đến tận Cos Comer rồi về.
- À ra thế - ông Gerald chỉ nói vậy.
- Anh Gerald, anh mập ra đấy.
Ông lại nhìn lên.
- Anh không nghĩ như vậy. Anh vẫn chỉ cân nặng ở mức lâu nay: có thể chỉ lên 1 ký.
- Vậy thì cái ký thêm đó ở bụng. Em thấy là anh đã cắt phần thun ở quần soọc.
- Những hàng mới này đấy - ông nói như để xem bà nói sao.
- Hàng này đã được làm co trước khi may rồi. Tại cái bụng của anh đấy. Thế anh không nhớ anh cứ phải xốc cổ áo luôn hay sao?
- Anh đã định nhắc em đấy, Sarah. Em hồ nhiều quá.
- Em hết hồ từ tuần trước cơ mà, em lại quên chưa đặt. Giờ thì anh phải dùng cổ số 15 rưởi.
- Ông trời ơi! Sarah! Chắc sau đó em lại bảo anh phải mang cỡ cổ ngựa mất - ông để cuốn sách tuột xuống khe đùi. Anh về nhà có 2, 3 đêm một tuần, anh mệt lắm. Anh mong em đừng áp lực anh nữa, cưng.
Bà ấy đến ghế của ông, ngồi lên cái tì tay.
- Anh có biết rằng, em thắc mắc là nếu chích anh bằng cái kim cài đầu, không biết anh có phản ứng nữa hay không?
Lần đầu tiên ông nhìn thẳng vào mặt bà sau nhiều năm nay, ông hướng mắt ra chỗ khác.
- Anh phải làm việc vất vả lắm, cưng.
- Em không cần biết anh làm việc gì, Gerald. Em chỉ muốn xem anh còn nhân tính không thôi.
Ông choàng tay quanh người bà và xiết chặt.
Bà hỏi:
- Anh thấy hoa mùa xuân đẹp không?
- Đẹp, cả mùa xuân cũng đẹp.
Bà ngả người trong lòng ông, với tay rút một bông hoa trong bình, cố tình chậm rãi một chút. Ông đưa tay vuốt bà.
- Và em cũng đẹp nữa.
Bà nghĩ,