
nhúc nhích được. Lúc đầu Dương-Qua giữ được một giây, nhưng vì yếu sức, sơ hở, chim sẻ thừa cơ đã bay mất. Tiểu-long-Nữ dùng phép xuất nội công ra bắt trở lại.
Ngày ngày lần lượt trôi qua, việc tập luyện vẫn được tiếp tục. Dương-Qua luyện nội công đến lối vận dụng ra ngoài thành chưởng lực, không kể sớm tối, ngày đêm, gió mưa, nóng rét.
Qua hạ sang xuân, thấm thoắt Dương-Qua đã lớn như thổi. Từ một chú bé nay đã thành một thiếu niên, thân hình vạm vỡ, tiếng nói sang sảng, gương mặt đẹp thanh tú, không còn giống ngày nào trong Cổ Mộ đài.
Nhờ sự tập luyện đúng cách, sức khỏe dồi dào, lối đi đứng vững vàng, da đỏ hồng hào, hơn nữa một phần nhờ thiên tư đĩnh ngộ và Tiểu-long-Nữ tận tình dạy bảo nên bản lĩnh tăng tiến rất mau.
Cuối thu, dượt tập thuần thục các thế "Thiên la địa võng", chưởng pháp của Dương-Qua trở nên thâm hậu vững vàng, phát xuất mau lẹ, có thể sử dụng kìm chế được 81 con chim sẻ, mặc dầu đôi lúc sơ hở vẫn còn để một vài con bay thoát.
Một buổi sáng, Tiểu-long-Nữ bảo Dương-Qua:
- Đến nay chưởng lực và nội công của mi đã tiến bộ nhiều. So với nhiều người trong giới võ lâm, chưa chắc mấy ai đối địch nổi. Bây giờ mi hãy tìm tên đạo sĩ mập ngày nọ khiêu khích hắn đấu một trận xem thử sức lực ra sao.
Nghe nói, Dương-Qua như cởi mở tấm lòng, tự thấy như lớn hơn trước nhiều. Nó hân hoan hỏi:
- Thưa cô nương, có phải cô nương muốn tôi đấu với tên Triệu-chí-Kính hay không?
Vốn biết rõ Triệu-chí-Kính là một cao thủ có hạng, thuộc hàng đệ tam đệ tứ của Toàn-Chân phái, đã từng nổi tiếng trên giang hồ, so với hắn tài nghệ của Dương-Qua còn thua kém xa, nên nàng lặng yên không trả lời.
Thấy Tiểu-long-Nữ làm thinh không đáp, Dương-Qua biết ý vội hỏi:
- Thưa cô nương, tôi chắc chưa đủ sức đấu với hắn. Thôi tôi cố gắng luyện tập ít năm nữa chẳng muộn gì. Chừng nào võ nghệ vượt được hắn sẽ tính sau. Thưa cô nương võ nghệ của phái Cổ Mộ đài tài hơn hẳn bên Toàn-Chân nhiều phải không?
Tiểu-long-Nữ đưa mắt nhìn tấm đá gắn trên nóc nhà có khắc chữ và nói:
- Lời nói tiên tri khắc trên đá này cho biết ta và mi có thể tin nhau được. Trước đây ta có đấu với lão đạo sĩ họ Khưu bên Toàn-Chân thì quả võ nghệ ta còn kém hắn. Nhưng như thế đâu phải là phái ta thua môn phái Toàn-Chân. Chẳng qua vì ta chưa luyện được đến chỗ tuyệt diệu của võ thuật Cổ-Mộ đài. Nghe Tiểu-long-Nữ bảo Khưu-xứ-Cơ hơn nàng; Dương-Qua không được hài lòng vội hỏi tiếp:
- Thưa cô nương chỗ tuyệt diệu ấy là gì cô đã bắt đầu tập chưa và đã đến mức nào rồi?
- Bây giờ mi đã nhận ta là thầy trước bàn thờ Tổ sư phu nhân thì ta cũng có thể kể cho mi nghe một ít lai lịch về người. Tổ sư vốn họ Lâm tên gọi Triều-Anh đã nổi danh trên võ lâm nên cách bảy mươi năm về trước giới giang hồ đã có câu:
Nam Lâm Bắc Vương
Bà lại hơn ông
Nam-Lâm tức là tổ sư phu nhân của ta quê ở Quảng-Tây, Bắc-Vương là Vương-trùng-Dương quê ở Sơn-Đông.
Trong thời bấy giờ hai vị là người giỏi nhất trong hạng võ nghệ cao cường, khó mà phân biệt ai hơn ai kém. Sau này vì phải lo khởi nghĩa đánh giặc Kim nên Vương-trùng-Dương phải gác việc tập luyện để lo việc nước. Trong lúc đó tổ sư phu nhân vẫn tiếp tục trau dồi bản lĩnh. Như thế đương nhiên phải vượt hẳn Vương-trùng-Dương một bực, nghĩa là bà đã thắng ông.
Sau này vì thất bại trong việc lớn, Vương-trùng-Dương phẫn chí lui về trong Cổ Mộ này để trau dồi lại võ nghệ.
Khi ấy tổ sư phu nhân lại xuất bước giang hồ làm việc nghĩa và có dụng ý chờ đợi Vương-trùng-Dương hạ sơn lần nữa. Một thời gian dài trôi qua hai người không hề gặp nhau. Sau đó không hiểu vì một lẽ gì bất hòa cả hai đánh cá với nhau và đấu võ. Vương-trùng-Dương thua nên nhường Cổ-Mộ đài cho phu nhân. Ta sẽ đưa mi đi coi để thấy các di tích của hai vị tiền bối ấy.
Tất cả các nơi trong Cổ-Mộ đài đều kiến trúc bằng đá. Không hiểu các vị đã dùng cách nào xây dựng nên.
Ngay sau đó, Tiểu-long-Nữ dẫn Dương-Qua đến một căn nhà kiến trúc thật lạ lùng. Bên ngoài hẹp, bên trong rộng hình như cái thang, phía đông có một khoảnh hình bán nguyệt và phía tây một khoảnh hình tam giác.
Thấy lạ lùng quá, Dương-Qua hỏi:
- Thưa cô nương, tại đây kiến trúc sao kỳ lạ thế này?
Tiểu-long-Nữ đáp:
- Chính đây là nơi Vương-trùng-Dương dùng để luyện võ. Phía trước hẹp để xuất chưởng lực tập trung, phía sau rộng để sử dụng quyền thuật, bên khoảnh tròn để sử dụng bát xà mâu. Dương-Qua chạy tung tăng khắp nơi nhìn kỹ và nhận thấy đây quả là một cung đài vừa sâu vừa cao. Nhưng Tiểu-long-Nữ đưa tay trở lên trên mà bảo rằng:
- Nơi đây thể hiện tất cả những cái tinh túy ảo diệu nhất của võ nghệ mà Vương-trùng-Dương đã ghi chép.
Nhìn theo ngón tay của Tiểu-long-Nữ, Dương-Qua nhận thấy có khắc sâu vào đá những nét ngòng ngoèo như chữ bùa hay hình chữ cổ tự, chỗ sâu chỗ cạn, nét nào cũng rõ ràng tinh xảo, diễn tả sự linh động của sự kỳ diệu tinh vi.
Bước qua một bên, Tiểu-long-Nữ khép một cánh cung thì thấy một cánh cửa đá từ từ mở rộng. Nàng đốt một cây đèn cầy soi đường và nắm tay Dương-Qua dắt vào.
ở đây cũng có một căn phòng nữa bằng phòng bên kia, xây toàn bằng đá, phía trước rộ