Khai-Quốc vương. Đến cửa Bắc, thấy quân sĩ phòng vệ uy nghiêm, chàng hướng lên gọi lớn:
- Chư quân mau gọi tướng trấn cửa Bắc ra gặp ta.
Viên đội trưởng lùi xuống, một lát thì Dương Bình với Lê Văn cùng lên cổng thành. Lê Văn thấy Tôn Đản thì reo lên:
- Anh năm. Anh cả đâu?
Tôn Đản chỉ về sau:
- Anh cả sắp tới.
Dương Bình lắc đầu:
- Thế mà Dực-Thánh vương bảo Khai-Quốc vương bị vua Bà Bắc-biên cho quân phục, dùng tên bắn chết rồi.
Vương truyền lệnh phát pháo mở cổng thành, lát sau Khai-Quốc vương tới. Vương lệnh cho Dương Bình:
- Dương huynh nhớ nhé: Quân của Phong-châu sẽ qua sông tiếp ứng trấn cửa Đông. Dương huynh cho họ vào, ta đặt họ dưới quyền Dương huynh.
Vương vào thành, đạo binh Thượng-oai hùng hổ vào theo. Cổng đóng lại. Đạo quân Thượng-oai dàn ra mau chóng trấn trung ương, phòng tiếp ứng các nơi.
Một người từ điện Giảng-vũ phi ngựa tới, cùng với đội thị vệ. Y chính là Tả kim ngô thượng tướng quân Tạ Sơn, quản Khu-mật viện. Phía sau Tạ Sơn có hai người mà vương nhớ nhung ngày đêm: Sư phụ Minh-Thiên, đạo sư Nùng-Sơn tử. Vương cảm thấy mừng run lên được. Vương vội xuống ngựa hành lễ:
- Sư phụ! Nùng đạo trưởng.
Hà Thiện-Lãm thấy Nùng-sơn tử, vội nhảy khỏi bành voi:
- Sư phụ. Lão nhân gia vẫn thường mạnh chứ?
- Ta vẫn mạnh. Con đem quân về tiếp ứng đấy ư? Sao chậm thế? Anh em phái Tản-viên do Nhất-Bách thống lĩnh hơn nghìn cao thủ về tới hôm qua. Tất cả tản vào dân chúng quanh Thăng-long chờ khi dẹp loạn xong, bắt hết dư đảng Hồng-thiết giáo.
Huệ-Sinh nắm tay Khai-Quốc vương:
- Vương gia yên tâm. Tất cả đều tốt đẹp. Tạ sư đệ sẽ trình với vương gia
Khai-Quốc vương hỏi Tạ Sơn:
- Sư đệ. Trông sắc diện sư đệ có hơi mệt. Tình hình ra sao?
- Lê Văn theo Thông-Mai với quận chúa Bảo-Hòa về tới đây đã hai ngày. May nhờ đại sư huynh Dương Bình tổng trấn Thăng-long, các vị ấy mới được vào thành. Đại hiệp Thông-Mai với quận chúa Bảo-Hòa hiện ngày đêm ở cạnh Hoàng-thượng. Em cho Lê đệ theo đại sư huynh Dương Bình tuần phòng kinh thành. Tuy các vương làm loạn, nhưng nhờ có sư phụ với Nùng đạo trưởng giúp đỡ, nên hệ thống tế tác của Khu-mật viện không bị xáo trộn. Sở dĩ quân các vương còn hung hăng, vì Khai-Thiên vương thiếu quyền, thiếu niềm tin của chư tướng.
Vương hỏi Dương Bình:
- Dương huynh là tổng trấn Thăng-long. Dương huynh cho ta biết tình hình phản loạn và tình hình phòng vệ.
- Trước kia thì cả mười đạo quân do thần thống lĩnh. Sau vì Hoàng-thượng bị bệnh, người mới chia cho mỗi thân vương chỉ huy hai đạo. Hai đạo Ngự-long trao cho Khai-Thiên vương. Hai đạo Bổng-nhật trao cho Đông-Chinh vương. Hai đạo Quảng-vũ trao cho Vũ-Đức vương. Hai đạo Quảng-thánh trao cho Dực-Thánh vương. Hai đạo Đằng-hải trao cho Vũ-Uy vương. Khi các vương làm phản thì dùng các đạo quân trực thuộc này công thành.
Thiệu-Thái hỏi:
- Như vậy hai đạo Ngự-long hiện thủ phía trong thành. Ai chỉ huy hai đạo Ngự-long? Còn Cấm-quân với Thị-vệ ra sao?
- Hai đạo Ngự-long do Tả-kiêu vệ đại tướng quân Lý Huyền Sư chỉ huy, hiện đạo Tả Ngự-long trấn cửa Quảng-phúc chống với hai đạo Bổng-nhật do Đông-Chinh vương công hãm. Đạo Hữu Ngự-long phòng cửa Đan-phượng, Đại-hưng chống với hai đạo Quảng-thánh do Dực-Thánh vương công hãm. Còn đạo Cấm-quân do Hổ-uy đại tướng quân Lý Nhân-Nghĩa chỉ huy trấn cửa Phi-long, Tường-phù chống với Vũ-Đức vương và hai đạo Quảng-vũ do Đô-thống Nguyễn Khánh chỉ huy. Thị-vệ thì do Tả kim ngô thượng tướng quân Tạ Sơn quản Khu-mật viện chỉ huy, trấn đóng các cung điện.
Huệ-Sinh nói:
- Thiên-tử binh có mười đạo, thì hai đạo đóng ở Nghệ-an, sáu đạo đặt dưới quyền chư vương. Chư vương dùng quân này làm nỗ lực chính tạo phản. Mỗi vương lại được Hồng-thiết giáo, Nguyên-Hạnh viện cho một hai đạo quân nữa. Nguyên-Hạnh theo Nhật-Hồ lão nhân, được lão phong làm trưởng lão. Trong thành chỉ có hai đạo Ngự-long, hợp với Cấm-quân, Thị-vệ. Đúng ra các vương chiếm được thành ngay ngày đầu. Nhưng nhờ hệ thống tế tác của Khu-mật viện hiệu nghiệm, nên thủy-quân không theo làm phản, thành ra cửa Bắc hóa thành phên dậu trấn thành. Kể ra, muốn đánh tan các đạo quân của chư vương, ta cần quân các trấn, thủy quân. Nhưng Khai-Thiên vương chưa đủ uy gọi quân các trấn với thủy quân cứu viện. Bây giờ Vương-gia về đây thì dẹp phản loạn dễ dàng. Nhưng bần tăng đang tìm kế vẹn toàn sao cho không đổ máu.
Khai-Quốc vương biết sư phụ mình trí tuệ vô biên, mà đức từ bi hỷ xả thực hiếm người theo kịp. Vương ghé tai sát vào người sư phụ. Huệ-Sinh tủm tỉm cười dặn dò vương một lúc. Vương nghe xong kính cẩn chắp tay:
- Đa tạ sư phụ cứu khổ cứu nạn.
Có quân báo:
- Đạo binh Phong-châu hơn nghìn người, mười thớt voi, trăm hổ, trăm báo, hơn trăm chim ưng vừa qua sông, đang chờ lệnh vương gia ở cửa Bắc.
Khai-Quốc vương bảo Lê Văn:
- Em ra đón Thuận-Tông vào, bảo ta truyền cho y giúp Lý Nhân-Nghĩa trấn cửa Đông. Nhớ tránh đổ máu.
Một lát, có tiếng voi rống, hổ gầm, beo tru, rồi trên trời một đoàn chim ưng bay rất đẹp. Lê Thuận-Tông ngồi trên bành voi cùng mấy thiếu niên ngang tuổi, trong đó có Hoàng Tích. Chàng cung tay hành lễ với