
nh Dĩ cảm kích gật đầu với Vân Ca, Vân Ca nửa ôm nửa kéo Hứa Bình Quân ra khỏi phủ nha.
Bởi vì quan phủ sợ huynh đệ của Lưu Bệnh Dĩ gây sự, cho nên một người cũng không được tiến vào, một đoàn chờ ở bên ngoài nghe tin tức. Có người nhìn thấy Vân Ca và Hứa Bình Quân đi ra, đều lập tức xông tới. Hứa Bình Quân vừa khóc, vừa oán hận mắng đuổi bọn họ cút đi. Hà Tiểu Thất mặc dù tuổi chưa lớn, nhưng lại thập phần thông minh, lập tức căn dặn tất cả mọi người rời đi trước. Những người này nhìn thấy phản ứng của Hứa Bình Quân, đã biết vài phần kết quả, vì trong lòng hổ thẹn, đều không dám lên tiếng rời đi.
Hà Tiểu Thất không dám nói lời nào, chỉ dùng ánh mắt hỏi Vân Ca, Vân Ca lắc lắc đầu với Hà Tiểu Thất, dặn hắn đưa Hứa Bình Quân về nhà, còn mình vội vàng đi tìm Mạnh Giác.
Mạnh Giác đang cùng một người đàn ông dung mạo thanh tao, quắc thước, phong thái hòa nhã cao sang, khoảng hơn bốn mươi tuổi ngồi trong Thất Lý Hương uống trà. Nhìn thấy Vân Ca bước vào, giống như không hề thấy Vân Ca đầy mặt lo lắng, hắn không chờ nàng mở miệng, đã cười nói: “Vân Ca, đợi cô hơn nửa ngày, trà đã uống hết hai bình. Nhanh đi làm món ăn sở trường của cô đi. Hôm nay gặp được tri kỷ, nhất định phải chúc mừng một chút.”
Vân Ca ngây người một chút, nhìn vào ánh mắt của Mạnh Giác, lập tức có điều hiểu ra, vội áp chế nội tâm tình cảm của mình, gật đầu đồng ý, xoay người vào nội đường vội vàng bận rộn. Mạnh Giác nhìn bóng dáng của nàng, có chút ngẩn ra, lại lập tức thu hồi tâm trạng, cười nhìn về phía người đối diện.
Sau thời gian uống hai chung trà, Vân Ca đã bưng ba khay đồ ăn đi lên. Mỗi khi người đàn ông ăn một món ăn, Vân Ca đều nhẹ giọng báo tên đồ ăn, càng về sau càng căng thẳng, tay túm chặt tay áo của mình, tới thở mạnh cũng không dám.
Trên đĩa ngọc có bày một món ăn màu đen, tựa như bầu trời đêm, có nhiều chấm nhỏ tượng trưng cho những ngôi sao trên trời. Người đàn ông gắp một ngôi sao, cắn một miếng rồi hỏi: “Trong ngọt có đắng, rõ ràng là đu đủ, nhưng lại có hương vị khổ qua (quả mướp đắng). Ba món ăn, một là lục y(áo xanh), một là sô ngu (trâu ngu), món này tên gọi là gì?”
Vân Ca cúi đầu trả lời: “Tiểu tinh ạ.”(ngôi sao nhỏ)
“Hối bỉ tiểu tinh
Tam ngũ tại đông.
Túc túc tiêu chinh,
Túc dạ tại công,
Thực mệnh bất đồng”
Nam tử chậm rãi than nhẹ: “Lục y, Sô ngu, Tiểu tinh, trong thức ăn có chứa đựng tâm sự thương nhớ người thân đã chết, cô nương có người thân gặp nạn sao? Nếu trong lòng bất bình, không ngại nói ra, mạng người mặc dù do địa vị cao thấp khác nhau, nhưng thế gian luôn có công lý.”
Dịch thơ: (bài thơ thuộc phần Thiệu nam, Quốc phong của Kinh Thi)
Những ngôi sao nhỏ
Tí ti sao bé lờ mờ,
Năm ba đã thấy lững lờ trời đông.
Chỉnh tề đi lại đêm rông,
Sớm hôm ở mãi cửa công nhọc nhằn
Thật vì số mệnh chẳng bằng.
Giải thích: Vua và các chư hầu thường có rất nhiều thê thiếp, nhưng địa vị của chính thê bao giờ cũng cao nhất. Tuy nhiên, các bà phu nhân của chư hầu chịu sự giáo hoá của bà Hậu phi Thái tự, đã không ghen tuông nữa, để thi ân huệ cho kẻ hầu thiếp dưới mình. Những người thiếp được phép tới hầu hạ gần gũi vua, nhưng không dám ở suốt đêm với vua, hễ thấy sao mọc thì đến, sao lặn thì về, cho nên nhân những điều trông thấy mà khởi hứng. Lại nói rằng sở dĩ như thế là vì số mệnh trời phú cho mình không thực đồng với bậc cao quý kia. Cho nên các hầu thiếp mới lấy việc được hầu hạ, gần gũi bên vua là niềm ân huệ sâu xa của bà chính thê mà không dám than oán về công lao khổ dã phải đi đi lại lại trong đêm hôm.
Trâu ngu cũng là một bài thơ thuộc phần Thiệu nam, Quốc phong của Kinh Thi, bản dịch thơ như sau:
Trâu ngu.
Kìa vùng lau đã rậm chen
Năm con heo đực bắn tên một lần,
Như trâu ngu, có lòng nhân.
Giải thích: Chư hầu phương nam chịu sự giáo hoá của Văn Vương, đều lo tu thân tề gia để bình trị đất nước. Ân huệ dư thừa đã ở nhân đạo với dân chung còn thấm nhuần đến các loài vật. Cho nên, trong cuộc săn bắn mùa xuân, cỏ cây tươi tốt, cầm thú dồi dào, vua chư hầu đã hành động nhân đức đến như thế (trong năm con heo, chỉ bắn một phát, hạ vài con chứ không giết hêt cả năm con). Nhà thơ mới thuật lại việc ấy để khen tặng mà tán thưởng rằng ấy là lòng nhân đạo tự nhiên chớ không phải gắng gượng, thật đáng gọi là nhân đức như con trâu ngu (không hề ăn loài vật sống).
Lục y là tên bài thơ thuộc phần Bội phong, Quốc phong của Kinh thi, bản dịch như sau:
Áo xanh.
Áo thì màu lục rõ ràng,
Cớ sao trong lót màu vàng thế ni?
Lòng ta đau đớn sầu bi,
Bao giờ mới dứt tuyệt đi nỗi buồn?
Giải thích: Trang Công bị mê hoặc bởi người thiếp. Phu nhân, chính thê là Trang Khương hiền thục mà bị mất địa vị chính thức, mới làm bài thơ này. Nói rằng: áo màu lục mà lót màu vàng là so sánh việc người hầu thiếp hèn hạ mà được cao sang vinh hiển, còn chính thê thì bị quên bỏ, phải âm thầm hèn hạ, vì thế, thể hiện một nỗi buồn đau ai oán.
Tất cả các bản dịch thơ đều là của bác Tạ Quang Phát.
Như vậy bài thơ mà Vân Ca nhắc tới, một nói về sự nhân đức, một nói về số mệnh bất đồng, một nói tới nỗi buồn và uất ức, ngụ ý nhắc tới