
uyên sinh pháp, làm tổng trì của văn tự, rất đạt mọi nhân duyên; Một khi con người đã đạt mọi nhân duyên, thì chả cứ phải gái dâm, trộm cắp, hào kiệt, với gian hùng, mà tả ra đúng các loại người đó, trong khi tả đến loại nào, đều theo nhân duyên pháp hoá ra. Vậy Thi Nại Am là hạng người nào? Chính là tài tử vậy? Trở nên tài tử kia, đã học theo giảng đạo của Long Thụ, giảng theo cái học của Long Thụ đã nên bồ tát cho nên cách vật trí tri…
Đọc bài phê này, có thể tự trị, vì sợ nhân duyên theo phép thánh nhân rồi. Truyện nói: Răn giữ điều chẳng thấy, sợ hãi điều chẳng nghe ra, đó vậy; Còn như trị người, thì không nghĩ ác, không nghĩ ác đã theo đạo Trung Thứ của Thánh hiền; Truyện nói: Vương đạo bằng phẳng, lồng lộng…ó vậy. Thiên hạ chả thiếu gì người học Thánh nhân phải có người dạy cho mới được. Hồi này biến động văn tự, lại một dạng bút pháp khác ra, như muốn phá trận ngựa, phải đồ câu liêm, muốn làm nổi phép câu liêm, phải lấy cắp được áo giáp, do ngựa mà đến sang, do sang mà đến giáp. Hô Duyên Chước có ngựa lại có súng; Từ Ninh có phép sang lại có giáp; Hô Duyên Chước phép ngựa chưa tan, trận súng đã bị mất về Sơn Bạc; Từ Ninh phép sang chưa dạy, áo giáp đã bị mất về Sơn Bạc. Nào khi khen ngợi ngựa Tích Tuyết Ô Truy; Nào khi khen ngợi áo giáp Kiễn Đường Nghê, lại thấy đối nhau Gia tổ Từ Ninh truyền phép sang; Gia tổ Thang Long truyền kiểu sang, hai tổ cùng truyền lại đối; Mà chợt đâu lại tả riêng ra ngoài ý tưởng một tổ truyền giáp, đối với mấy hồi trước xa xa tả một thợ rèn truyền từ nghiệp tổ, thấy trong hồi lắm đoạn kỳ văn.
Tả Thời Thiên vào nhà Từ Ninh, đã ngoài canh một, mà vợ chồng Từ Ninh chưa ngủ, tả sau khi vợ chồng Từ Ninh ngủ, đã đến canh hai, mà Thời Thiên chưa ăn cắp, lại sao? Vì nêu đề thì phải giảng văn cho hết, tức là phải tả ra văn cho rõ một đề tài, nếu tả lược qua không hết đề, không có gì hay vậy.
Mấy hồi trên tả Chu Đồng gia quyến, bỗng đâu nảy thêm cậu ấm, nảy ra tình thương con Tri Phủ; Hồi này tả vợ chồng Từ Ninh, thêm đứa con sáu bảy tuổi, cho rõ họ Từ có con, thấy đời trước để lại áo giáp còn truyền mãi được, làm văn phải hướng vào khi rỗi bút tả ra, theo phép Mao Thi, Sử Mã, tài tử Nại Am học lỏm được nổi phép này.
Tả Thời Thiên một đêm nghe chuyện, nào lời người nhà, nào lời vợ chồng ân ái, nào lời người chủ, nào lời nữ tỳ, nào lời trên lầu, nào lời đêm khuya, nào lời ngái ngủ, câu nào ý ấy, nghe được rõ ra. Thang Long, Từ Ninh thường nói hòm da dê đỏ, Từ Ninh còn thêm câu; phía trong có bọc bông cẩn thận; Thang Long lại thêm câu; Có phải trên mặt có thêu triện, và khoảng giữa thêu sư tử hí cầu… chỉ vì thế mà Từ Ninh có công theo đuổi Từ Ninh rất khéo!
Do theo đuổi tới Sơn Đông, rồi đưa về Sơn Bạc, với đường đất chẳng gần, chia ra bao nhiêu đoạn đánh lừa, có phép tắc, thấy khéo nói ra không hết.
Hồi 56
Từ Ninh dạy phép Cân Liêm Sang;
Tống Giang phá trận Liên Hoàn Mã
Bấy giờ Tiều Cái, Tống Giang, Ngô Dụng, cùng các vị Đầu Lĩnh trông thấy Từ Ninh mình sáu thước năm tấc, mặt trắng phau phau, ba chòm râu đen rưng rức, lưng rộng vai to, rõ ra đường đường tu my nam tử, thì ai nấy đều vui mừng hớn hở trong lòng.
Khi tuyển quân xong, Từ Ninh liền xuống dưới sân Tụ Nghĩa sảnh, cầm cây Câu liêm sang múa mang một lúc, chúng trông thấy đều vỗ tay khen ngợi luôn mồm. Từ Ninh bảo với quân chúng rằng:
– Phàm ngồi trên mình ngựa đánh Câu Liêm sang, thì lấy cỡ từ thắt lưng mà đánh,trên giữa bảy đường, ba lần giật, bốn lần lượn, một lần đâm, ba lần gạt, cộng có chín phép biến. Bằng đánh Câu Liêm dưới bộ, thì trước hết đi tám thước vung ra bốn mặt để lấy thế, rồi cứ mười hai bước một lần biến, mười sáu bước một lần giở mình chĩa Câu Liêm vừa đâm vừa giật, hai mươi bốn thước hất lên đè xuống, móc bên Đông, đánh bên Tây, ba mươi sáu bước quay mình như lọng che, cướp đánh lung tung không đâu không vỡ. Đó là phép chính đánh Câu Liêm Sang, có bốn câu thơ phải thuộc làm lòng để luyện.
Bốn rung, ba móc, thông bảy đường,
Chín lần biến đổi khác tay sang
Hai mươi bốn bước vung sau trước
Mười sáu bước nay, chuyển khác thường.
Từ Ninh đọc xong, lại cầm cây Câu Liêm, diễn theo phép chính một hồi ai trông thấy cũng đều vỗ tay khen ngợi. Từ đó trở đi, các quân sĩ ngày đêm luyện tập, không lúc nào trễ nải. Sau Từ Ninh dạy cho đám bộ quân, lấy cách nấp núp trong cỏ, móc chân giật cẳng, cùng ám pháp ba đường đánh dưới, đều bảo cho thông thạo hết cả.
Thấm thoát trong nửa tháng trời, trong sơn trại đã được sáu bảy trăm người đánh Câu liêm sang rất giỏi. Tống Giang cùng các Đầu Lĩnh cả mừng, liền cùng nhau để sắp sửa phá trận ngựa Liên Hoàn.
Nói về Hô Duyên Chước, từ khi mất Bành Dĩ cùng Lăng Chấn, hàng ngày lại đem quân ra bến nước để khơi đánh. Trong sơn trại thấy vậy, chỉ cho các Đầu Lĩnh thủy quân ở dưới trại để coi sóc phòng bị, còn các bến nước thì để ngầm các cọc nhọn, để phòng khi thuyền bè các quan quân đến đánh, bởi vậy nên Hô Duyên Chước có đem quân hai đường bên Tây bên Bắc núi, song không thể nào lấn sang sơn trại được. Bấy giờ trong sơn trại đã luyện được quân đánh Câu Liêm sang, và