
on hầu đi mời Ðái Viên vào dự tiệc. Viên vừa bước vào phủ, vừa bước lên nhà, cũng bị Phó Anh và Tôn Cao chém tới, chết liền tại chỗ, không kịp kêu la một tiếng.
Giết xong hai tên phản nghịch, Phó Anh và Tôn Cao sai quân đi bắt và giết hết già trẻ thân thuộc của hai tên Qui Lãm và Ðái Viên cùng dư đảng của chúng.
Thù chồng đã trả, Từ thị mặc đồ tang phục, cắt lấy thủ cấp của hai tên giặc đem ra trước bàn thờ tế chồng.
Qua ngày hôm sau, Tôn Quyền đích thân đem binh mã đến Ðan Dương, thấy em dâu đã giết được hai tên giặc Ðái, Qui, mừng rỡ vô cùng, liền phong Tôn Cao và Phó Anh làm Nha Môn tướng, đóng giữ Ðan Dương, và đón Từ thị về nhà dưỡng lão.
Khắp Giang Ðông, ai nghe tin này cũng phải chắc lưỡi khen Từ thị là người tiết liệt.
Người sau có thơ khen nàng rằng:
Tài đức gồm hai tuyết giá trong,
Tru di nghịch tặc, rửa hờn chồng.
Tôi hèn bó gối, tôi trung chết,
Thua hẳn Ðông Ngô một má hồng.
Bấy giờ khắp Ðông Ngô, các nhóm giặc cỏ, giặc núi đều bị dẹp tan.
Trong sông Ðại Giang có dư bảy ngàn chiến thuyền.
Tôn Quyền liền bái Châu Du làm Ðại Ðô Ðốc, thống lãnh quân mã thủy lục Giang Ðông.
Tháng mười, năm Kiến An thứ mười hai, vào tiết Ðông, mẹ ruột của Tôn Quyền là Ngô Thái phu nhân lâm bệnh nặng, liền đòi Châu Du và Trương Chiêu về nói:
– Ta vốn người đất Ngô, cha mẹ mất sớm, nên theo em trai là Ngô Cảnh sang ở Việt Trung. Sau về làm dâu họ Tôn, sinh được bốn trai. Con trưởng là Sách, lúc mang thai ta nằm mơ thấy nuốt mặt trăng vào bụng. Con thứ hai là Quyền, lúc hoài thai lại thấy nuốt mặt trời vào bụng. Bốc sư đã nói rằng mộng thấy “nhật nguyệt nhập hoài” ắt sinh quý tử… Không may Sách mất sớm, đem cơ nghiệp Giang Ðông giao phó cho Quyền. Vậy nếu ta có thác đi, hai tướng phải gắng hết sức phò tá Quyền giữ gìn sự nghiệp của cha anh để lại.
Ðoạn, Ngô Thái phu nhân quay qua nói với Tôn Quyền:
– Con phải đãi Tử Bố với Công Cẩn như thầy con vậy, không được khinh thường nhé! Em gái của mẹ cùng kết hôn với cha con thì con cũng phải coi như mẹ ruột của con vậy. Ðứa em gái của con, con phải nuôi dạy hết lòng, rồi lựa nơi xứng đáng, kén người giai tế mà gả chồng cho em.
Hơi nói yếu dần, Ngô Thái phu nhân cố ngoi đầu lên quan sát mọi vật lần cuối cùng, rồi ngã người ra, nhắm mắt tắt thở. Tôn Quyền ôm mẹ khóc than một hồi, đoạn sai các quan lo việc tang chế…
Qua năm sau, nhằm tiết xuân, Tôn Quyền thương nghị muốn kéo quân đi đánh Hoàng Tổ.
Trương Chiêu can:
– Chúa công còn ở trong tang chế, không nên động binh.
Nhưng Châu Du nói:
– Báo thù rửa hận, cần gì phải đợi hết tang!
Tôn Quyền còn đang do dự chưa quyết định, chợt có quan Bắc Bình Ðô Úy Lữ Mông về xin ra mắt, rồi thưa:
– Tôi trấn thủ ở cửa sông Long Thu, ngày vừa qua bỗng thấy bộ tướng của Hoàng Tổ là Cam Ninh dẫn quân tới xin hàng. Tôi đã dò la kỹ lưỡng được biết rằng Ninh tự là Hưng Bá, người ở Lâm Giang thuộc Ba quận. Người thông hiểu về kinh sử, có sức mạnh hơn người, tính lại thích lãng du, thường chiêu tập bọn du đảng, lưng đeo chuông đồng, tung hoành khắp thiên hạ. Ai ai nghe tiếng chuông đều kinh hãi ù té bỏ chạy trốn. Ninh còn lấy gấm Tây Xuyên làm buồm thuyền, vì thế người ta gọi là “giặc buồm gấm”. Về sau, Ninh hối hận việc làm của mình nên cải tà quy chánh, dẫn thủ hạ đến đầu Lưu Biểu. Thấy Biểu không làm nổi việc lớn, Ninh muốn sang theo Ðông Ngô ta, nhưng lại bị Hoàng Tổ giữ lại ở Hạ Khẩu. Trước đây, quân ta tiến đánh, Tổ đã nhờ Cam Ninh mới giữ được thành. Về sau, Tổ lại bạc đãi Ninh. Viên Ðô Ðốc là Tô Phi đã hai, ba lần tiến cử Ninh để Hoàng Tổ trọng dụng. Nhưng Hoàng Tổ nói: “Hắn là một tên cướp sông, trọng dụng làm gì!” Do đó, Cam Ninh oán giận Hoàng Tổ. Tô Phi biết được, liền bày tiệc rượu mời Cam Ninh dùng, và nói: “Tôi đã mấy lần tiến cử, nhưng Chúa công không trọng dụng. Ngày tháng thoi đưa, đời người mấy chốc… ông nên tính rộng mưu xa là hơn. Nay tôi cử ông làm chức Trưởng ở Ngọc huyện để tiện cho ông hành động, muốn ở hay đi thì tùy ỵ…” Nhờ thế Cam Ninh mới thoát được Hạ Khẩu, muốn sang hàng Giang Ðông ngay, nhưng còn sợ Giang Ðông thù về việc mình đã giết Lăng Tháo cứu Hoàng Tổ ngày trước. Tôi có nói: “Chúa công tôi mong người hiền như khát nước, không oán hận đâu. Vả lại, khi lâm trận ai cũng phải hết lòng vì chủ, có gì đáng oán ông đâu?” Ninh vui mừng Hán hở kéo quân qua sông chờ bái kiến. Vậy xin Chúa công định đoạt.
Tôn Quyền mừng rỡ nói:
– Nếu ta có Cam Hưng Bá giúp sức, ắt phá được Hoàng Tổ.
Dứt lời, sai Lữ Mông dẫn Cam Ninh vào. Ninh tham bái xong, Quyền nói:
– Hưng Bá đến đây, ta mừng vô hạn, đâu còn nghĩ đến chuyện cũ? Xin đừng nghi ngờ gì cả, và xin Tướng quân chỉ giáo cho kế sách phá Hoàng Tổ.
Ninh thưa:
– Nay vận Hán đến ngày tàn, thế nào Tào Tháo cũng cướp ngôi. Ðất Nam kinh Tháo không thể để yên ngồi ngó. Lưu Biểu thì không biết tính xa, con cái lại ngu hèn, làm sao giữ nổi sự nghiệp. Minh công nên sớm khắc phục Kinh châu, nếu chậm e Tháo tính trước mất. Nay trước hãy phá Hoàng Tổ. Tổ đã già yếu, lại chỉ biết tham lợi, vơ vét của dân, làm cho lòng dân vô cùng oán hận. Ðã vậy, chiến cụ lại không sửa