
lớn càng đoảng, sao nước lạnh thế này?
Bọn hầu nhỏ cười nói:
– Thưa cô, trời này cháu sợ nước lạnh nên rót nước sôi đấy. Thế mà lại lạnh mất rồi.
Bỗng có một bà già mang bình nước sôi đi qua, đứa hầu nhỏ liền nói:
– Bà ơi, cho tôi ít nước để pha.
– Chị Ơi, nước pha trà của cụ đấy, chị nên đi múc lấy, có to chân lên đâu mà sợ!
Thu Văn nói:
– Nước của ai tôi cũng không cần! Nếu bà không đưa, cứ để ấm nước chè của cụ ra để rửa tay!
Bà già quay lại, nhìn thấy Thu Văn, liền đồ ra ít nước nóng. Thu Văn nói:
– Đủ rồi! Bà đã già mà chẳng biết gì cả! Ai chẳng biết là của cụ! Không lấy được, chúng tôi lại dám xin à?
Bà già cười nói:
– Tôi mắt lóa, không nhận ra được cô.
Bảo Ngọc rửa tay xong, bảo đứa hầu nhỏ cầm hộp sáp đổ vào tay cho xoa. Nhân có nước nóng. Thu Văn, Xạ Nguyệt cũng rửa tay rồi theo Bảo Ngọc đi.
Bảo Ngọc lấy một bình rượu nóng, bắt đầu rót mời từ thím Lý. Tiết phu nhân và thím Lý đều cười và mời ngồi, Giả mẫu nói:
– Cháu còn bé, cứ để cho nó rót, chúng ta phải uống cạn chén này.
Rồi Giả mẫu cầm chén uống trước. Hình phu nhân và Vương phu nhân đều vội uống. Tiết phu nhân và thím Lý cũng phải cạn chén. Giả mẫu lại bảo Bảo Ngọc:
– Cháu rót cả cho các chị em nữa, không được rót bừa, bảo họ đều phải uống hết.
Bảo Ngọc vâng lời, theo thứ tự rót đến Đại Ngọc. Đại Ngọc không uống, cầm chén lên đưa vào mồm Bảo Ngọc, Bảo Ngọc uống một hơi hết ngaỵ Đại Ngọc cười nói: “Cám ơn anh”.
Bảo Ngọc lại rót hộ cho cô ta một chén. Phượng Thư cười nói:
– Chú Bảo không được uống rượu nguội, cẩn thận đấy kẻo lại run tay, sau không viết được chữ, không giương được cung đâu.
– Em có uống rượu nguội đâu.
– Tôi vẫn biết chú không uống rượu nguội. Đó là tôi dặn qua đấy thôi.
Bảo Ngọc lại đi rót rượu mời mọi người ngồi phía trong, riêng có vợ Giả Dung thì sai a hoàn rót; sau ra ngoài hiên rót mời bọn Giả Trân. Một lúc sau rồi về chỗ.
Sau khi mang đồ nước lên, lại tiếp đến dâng lễ nguyên tiêu. Giả mẫu liền bảo: “Hãy cho nghỉ hát. Lũ con trẻ đáng thương thực, cho chúng nó một ít canh nóng, đồ ăn nóng rồi sẽ lại hát”.
Lại sai mang hoa quả và đồ lễ nguyên tiêu cho chúng ăn.
Lúc nghỉ hát, bà già dẫn đến hai cô xẩm kể chuyện, thường vẫn ra vào trong phủ. Hai người đặt hai cái ghế ở bên cạnh, Giả mẫu bảo họ ngồi và đưa đàn tì bà cho họ gẩy. Giả mẫu hỏi thím Lý và Tiết phu nhân: “Thích nghe tích gì?” Hai người đều thưa: “Tích gì cũng được”. Giả mẫu liền hỏi:
– Gần dây có học thêm được chuyện nào mới không?
Hai cô xẩm thưa:
– Có một chuyện về đời Ngũ đại cuối nhà Đường.
Giả mẫu hỏi tên là vở gì. Cô xẩm thưa:
– Vở Phượng cầu loan.
Giả mẫu nói:
– Cái tên cũng hay đấy, nhưng do đâu mà có chuyện ấy? Hãy nói qua cho ta nghe, hay thì hãy kể.
Cô xẩm thưa:
– Cuối đời Đường, có một vị hương thân, người Kim Lăng, tên gọi Vương Trung, đã từng làm tể tướng hai triều vuạ Sau cáo lão về nhà, chỉ có một vị công tử tên là Vương Hy Phượng.
Mọi người nghe nói cười ầm lên. Giả mẫu cười nói:
– Thế không trùng tên với con Phượng nhà ta à?
Một bà già vội đứng dậy đẩy cô xẩm nói:
– Đó là tên mợ Hai đấy, không được nói bậy!
Giả mẫu nói:
– Cứ việc nói đi.
Cô xẩm cười đứng dậy nói:
– Chúng cháu thật đáng chết! Không biết là tên mợ Hai!
Phượng Thư cười nói:
– Sợ gì! Cứ nói đi. Nhiều người trùng tên trùng họ chứ.
Cô xẩm lại nói:
– Năm ấy vị hương thân họ Vương cho công tử lên Kinh thị Một hôm mưa to, công tử vào trú ở một cái trại. Ngờ đâu trong trại ấy cũng có một vị hương thân họ Lý, là bạn thân với vị hương thân họ Vương, liền giữ công tử ở lại thư phòng. Vị hương thân họ Lý không có con trai, chỉ có một tiểu thư tên gọi là Sồ Loan, cầm kỳ thi họa, món gì cũng giỏi.
Giả mẫu nói:
– Chẳng trách được gọi là phượng cầu loan. Thôi không cần nói nữa, ta đã đoán ra rồi. Chắc là Vương Hy Phượng muốn lấy Sồ Loan làm vợ chứ gì?
Cô xẩm cười nói:
– Cụ đã xem tích này rồi thì phải?
Mọi người đều nói:
– Truyện nào mà cụ chẳng xem! Dù chưa xem, người cũng đoán ra được.
Giả mẫu cười nói:
– Truyện ấy cũng cùng một lối như các truyện khác thôi, chỉ kể những giai nhân tài tử, chẳng có thú gì. Nói con gái nhà người ta rất tệ mạt, lại còn bảo là “giai nhân”! Toàn là đặt chuyện, không căn cứ vào đâu cả. Cứ mở mồm ra là con nhà “hương thân”, bố không phải thượng thư tất là tể tướng. Hễ là tiểu thư thì nhất định được yêu quí như ngọc. Tiểu thư ấy tất là hạng thông văn chương, biết lễ nghĩa, vào bực giai nhân hiếm có. Rồi thấy đứa con trai nào xinh đẹp, không kể họ hàng, bạn bè, lại nghĩ ngay đến việc trăm năm của mình, quên cả bố mẹ, bỏ cả sách vở, ma chẳng ra ma, giặc chẳng ra giặc, như thế có giống bậc giai nhân một tí nào không? Dù có học giỏi đến đâu, mà làm những việc như thế, cũng không thể gọi là giai nhân được! Ví như một người con trai học hành rất giỏi mà đi làm giặc, thì phép vua có coi là tài tử mà tha tội cho không? Thế mới biết bọn làm sách chỉ tự mình bưng miệng mình. Vả chăng, đã nói là nhà thư hương thế hoạn, tiểu thư nhà đại gia ấy lại thông sách vở, biết lễ nghĩa, mà bà mẹ cũng vậy, dù khi đã cáo lão về nhà rồi, tất