XtGem Forum catalog
Hồng Lâu Mộng – Phần 2

Hồng Lâu Mộng – Phần 2

Tác giả: Tào Tuyết Cần

Thể loại: Truyện dài tập

Lượt xem: 3212984

Bình chọn: 9.00/10/1298 lượt.

có gì là nhất định. Sau cùng mời được một ông thầy đến xem bệnh rồi hỏi:

– Đêm ấy cô có ngồi nhập định không?

Đạo bà nói:

– Xưa nay đêm nào sư cô tôi cũng ngồi nhập định.

– Có phải đêm qua bỗng dưng sinh bệnh không?

– Chính thế.

– Đó là vì tà hỏa nhập vào tim đấy.

Mọi người hỏi:

– Có cần gì không?

– May mà ngồi nhập định chưa lâu lắm, tà hỏa chưa vào sâu, còn có thể chữa được.

Nói xong thầy lang cho đơn “Giáng phục tâm hỏa” sắc thang cho Diệu Ngọc uống. Diệu Ngọc dần dần bình phục.

Tin này đồn ra ngoài, bọn chơi bời lêu lổng nghe được, liền bịa đặt ra nhiều chuyện không đâu. Chúng nói:

– Người chừng ấy tuổi, chịu làm sao được? Vả lại hình dáng phong lưu, tính tình linh lợi, sau này chẳng biết lọt vào tay ai, thì người ấy tốt phúc.

Qua vài ngày, Diệu Ngọc đã hơi đỡ, nhưng tinh thần chưa thật bình phục, có lúc vẫn còn mơ màng, hoảng hốt.

Một hôm Tích Xuân đang ngồi, thì Thái Bình vào nói:

– Cô có biết chuyện cô Diệu Ngọc không?

– Cô ta có việc gì?

– Hôm qua tôi nghe cô Hình và mợ cả nói chuyện: Cô Diệu Ngọc từ hôm đánh cờ với cô về, đêm ấy bị trúng tà, miệng kêu rầm lên, nói kẻ cướp tới bắt, đến nay vẫn chưa khỏe. Cô thử nghĩ xem, có lạ không?

Tích Xuân nghe nói, im lặng không đáp, trong bụng nghĩ thầm: “Diệu Ngọc tuy là trong sạch, nhưng trần duyên chưa dứt. Tiếc thay mình lại sinh ở nhà này, tu hành không tiện; nếu mình được tu hành, làm gì có tà ma nhiễu hại! Chắc chắn sẽ lửa lòng lạnh tắt, duyên nghiệp sạch không”. Nghĩ đến đó, Tích Xuân bỗng dưng tinh thần cảm thông, trong lòng như có sở đắc, liền ứng khẩu đọc câu kệ như sau:

Giời đất không bến bờ,

Chỗ nào là nên ở?

Vốn tự chỗ không ra,

Nên về chỗ không đó.

Đọc xong, cô ta sai a hoàn thắp hương, một mình ngồi im lặng, rồi lục sách thế cờ ra xem mấy bài do ông Khổng Dung vào Vương Tích Tân làm ra. 8 Trong đó các thế “Hà diệp bao giải” 9, “Hoàng oanh bác thỏ” 10 đều không lạ lắm. Thế “Tam thập lục cuộc sát giác11), thì trong một lúc cũng khó lãnh hội và khó nhớ. Chỉ có thế “Thập long tẩu mã” 12 là rất có ý tứ. Tích Xuân đang nghĩ ngợi thì thấy ở ngoài có một người chạy vào trước sân, gọi:

– Chị Thái Bình ơi!

1 Nguyên là thể phú, vì hạn chế vần, chúng tôi dịch theo thể này.

2 Tức Lý Dục, vua nước Nam Đường, bị Tống Thái Tông diệt mất nước.

3 Ở hồi 77, theo lời Vương phu nhân nói, thì con Năm đã chết rồi, có lẽ là lầm.

4 Một đồ dùng người xưa thường làm để treo ở ngoài mái nhà có gió thổi thì chạm nhau kêu leng keng.

5 “Ỷ Lan” đã chú thích ở hồi trên. “Tư hiền” là khúc đàn do Chu Văn Vương làm ra khi tìm được Lã Vọng.

6 Một trong mười hai luật đời xưa. Trong mười hai chi thì thuộc về tuất.

7 Chủy là một trong năm âm luật của đàn (cung thương giốc chủy vũ).

8 Khổng Dung người đời Tam quốc; Vương Tích Tân người đời nhà Đường đều là tay cao cờ.

9 Lá sen bọc cua.

10 Oanh vàng đâm thỏ.

11 Ba mươi sáu nước đánh góc.

12 Mười rồng ruỗi ngựa. Các chữ trên này là thế cờ tướng, do những tay cao cờ đặt ra.

Chương 88: Muốn Bà Vui, Bảo Ngọc Khen Cháu Bé Mồ Côi Nghiêm Phép Nhà, Giả Trân Đánh Người Hầu Cứng Cổ

Tích Xuân đang ngồi nghĩ các thế cờ, bỗng nghe ngoài sân có tiếng Uyên Ương gọi Thái Bình. Thái Bình ra, cùng Uyên Ương vào. Uyên ương đi với một a hoàn nhỏ, mang đến một cái túi nhỏ bằng lụa vàng. Tích Xuân cười hỏi:

– Việc gì thế?

– Vì sang năm cụ tám mươi mốt tuổi, đã hứa làm một đàn chay công đức chín đêm ngày và viết ba ngàn sáu trăm năm mươi mốt bộ kinh “Kim cương”. Đã phát ra ngoài cho mọi người viết rồi, nhưng tục ngữ thường nói: Kinh kim cương cũng như cái vỏ ngoài của nhà Đạo, “Tâm kinh” mới là phần cốt yếu 1. Cho nên khi viết kinh Kim cương phải viết “Tâm kinh” vào, càng thêm công đức. Cụ nghĩ rằng “Tâm kinh” đã quan trọng, đức Phật Quan Âm lại là một vị nữ bồ tát, vì thế cần có các cô, các mợ, bà con ruột thịt viết cho được ba trăm sáu mươi lăm bộ. Như vậy, vừa thành kính, vừa trong sạch. Trong nhà chúng ta, trừ mợ Hai bận việc nhà, không có thì giờ rảnh lại không biết viết. Ngoài ra, những người biết viết, bất luận là viết được nhiều hay ít, đến cả mợ Trân và các dì, đều chia phần viết cả. Người trong nhà này cố nhiên là không cần phải nói nữa.

Tích Xuân nghe xong gật đầu nói:

– Việc khác tôi làm không nổi, chứ viết kinh thì tôi rất thành tâm. Chị để đấy ngồi uống trà đã.

Uyên Ương để cái bao vàng lên trên yên rồi cùng Tích Xuân ngồi xuống.

Thái Bình bưng một ly trà lại. Tích Xuân cười, hỏi Uyên Ương:

– Chị có viết không?

– Cô lại nói đùa. Trước đây mấy năm tôi còn viết lách, chứ ba bốn năm nay, cô có thấy tôi cầm đến bút đâu?

– Làm việc này là có công đức đấy.

– Tôi cũng có một việc: Lâu nay, sau khi hầu cụ đi nghỉ, tôi đọc kinh đếm gạo, đọc đã được hơn ba năm rồi. Gạo ấy tôi cất sẵn, chờ khi nào cụ làm chay, tôi sẽ đem số gạo góp vào để cúng Phật và bố thí cho người nghèo. Thế cũng là một chút lòng thành của tôi.

– Như vậy nếu cụ thành đức Phật Quan Âm, chị sẽ là cô Long Nữ.

– Làm gì được thế? Có điều ngoài cụ ra, tôi không hề hầu hạ được ai, chẳng hiểu vì kiếp trước duyên phận ra sao?

Nói đến đấy