
ó lường của vận mệnh, thành ra có mấy phần thương cảm mà thôi!”
Tôi nói: “Quý nhân kỳ thực chẳng cần thương cảm làm gì, chúng ta không giống nhau.”
“Vậy sao?” Nàng ta tựa như tự hỏi mình, lại như là hỏi tôi: “Kỳ thực đều giống nhau cả thôi.”
Nàng ta vào cung chỉ mới nửa năm, cũng khá được ân sủng, vậy mà lại có suy nghĩ rõ ràng và tỉnh táo như vậy, thực khiến tôi cảm thấy kinh ngạc. Nàng ta lại lấy ra một bài thơ khác, đưa cho tôi. “Nương nương nổi tiếng có tài thơ văn, xin hãy giúp thần thiếp đánh giá một chút.”
Tôi cầm xem thử, thấy cũng là một bài thơ ngắn: “Môi đỏ hàm răng ngọc dễ ưa, mây xanh muốn xuống độ cao vừa. Cũng hay hát đến nơi tình tứ, giữ chậm dư âm ánh mắt đưa[2'>.”
[2'> Bài thơ Thập ức thi kỳ 4 của Lý Nguyên Ưng. Dịch thơ Lê Xuân Khải. Phiên âm Hán Việt: Nhất xuyến hồng nha toái ngọc xao, bích vân vô lực trú lăng tiêu. Dã tri xướng đáo quan tình xử, hoãn án dư thanh nhãn sắc chiêu.
Tôi khẽ cười, nói: “Bản cung bây giờ thất thế, Quý nhân viết vài câu cũng chẳng sao, nhưng hà tất phải động chạm đến An Phương nghi, bây giờ nàng ta đang đắc thế, truyền ra ngoài thì không hay đâu. Huống chi với miệng lưỡi của người trong cung, dù vô tâm cũng sẽ thành hữu ý.”
Nàng ta hơi cau mày, đôi hàng lông mày thanh tú như dính chặt vào nhau. “Tần thiếp không muốn giễu cợt ai, chỉ cảm thấy mọi người trong cung đều như nhau dù có địa vị cao thấp thế nào, càng không cần phải tranh đấu làm gì!” Thong dừng lại, nàng ta nói tiếp: “Đời người vốn đã có quá nhiều việc phiền não, bọn họ gây khó dễ cho nhau như vậy, tần thiếp chỉ cảm thấy bọn họ thật đáng thương.”
Lòng tôi hiểu rõ, việc ở hậu cung há lại đơn giản như trong suy nghĩ của nàng ta, những sự tranh đấu có từng ít bao giờ?
Tôi không nói gì, Phương Nhược đưa mắt thúc giục, ý bảo tôi không tiện ở lại lâu. Tôi hiểu ý, bèn nói với Thụy Quý nhân: “Bản cung chỉ muốn khuyên Quý nhân một câu, bản thân hiểu rõ là được, không cần phải động chạm đến người khác.”
Nàng ta nở một nụ cười trong trẻo. “Đa tạ nương nương. Tần thiếp cũng không có ý động chạm đến người khác, chỉ tỏ lòng ngưỡng mộ nương nương, bây giờ đã có thể thanh tịnh hơn một chút rồi!”
Thanh tịnh? Tôi cười lạnh, nơi nào mới thực sự thanh tịnh đây? Phật môn ư? Nhưng bên ngoài Phật môn chính là hồng trần, chẳng có nơi nào thực sự thanh tịnh cả.
Nàng ta tiện tay xé bài thơ đó đi, hỏi: “Nương nương có biết tại sao tần thiếp lại thích đình Tùng Phong không?”
Tôi đưa mắt nhìn nàng ta. “Quý nhân xin hãy nói ta nghe thử.”
Nàng ta điềm đạm nói: “Tùng có khí tiết, hà tất phải làm giống hoa bợ đỡ.” Dứt lời, nàng ta liền ung dung rời đi.
Nhìn theo bóng lưng nàng ta, tôi khẽ thở dài một tiếng. Phương Nhược nói: “Thụy Quý nhân đúng là một cô gái tốt!” Nàng ta không nói thêm nữa nhưng tôi lại biết, một cô gái tốt như vậy không thích hợp với cuộc sống trong cung, dù rằng nàng ta bây giờ đang đắc sủng.
Thời tiết ngày một nóng hơn, đến độ tháng Sáu, tôi đã phải đổi sang mặc áo sa mỏng. Có thai năm tháng, thân thể tôi hết sức mỏi mệt và hay buồn ngủ, thường xuyên ngồi tựa trên chiếc sạp quý phi mà ngủ gật giữa ban ngày nhưng đến đêm thì lại không ngủ được, cái bụng đã nhô hẳn lên khiến tôi trằn trọc không yên, ngón chân và bắp đùi thỉnh thoảng lại bị chuột rút, hết sức khó chịu.
Ôn Thực Sơ đến khám cho tôi rồi nói: “Nương nương nên uống nhiều canh ninh xương, nhớ cho thêm chút giấm, thường ngày nên ăn nhiều đậu phụ và rau quả, như vậy có thể chữa được chứng chuột rút. Còn nếu muốn ngủ ngon, trước khi đi ngủ hãy uống một chút sữa bò.”
Hoán Bích đứng bên cạnh cẩn thận ghi nhớ. Ôn Thực Sơ lại viết thêm mấy phương thuốc an thai, nói: “Xin thứ cho vi thần nhiều lời, nương nương ngủ không ngon e là vì trong lòng có quá nhiều suy nghĩ, chỉ dùng thuốc thì khó mà có tác dụng được.”
Tôi xắn tay áo lên, mỉm cười nói: “Đại nhân đã biết vậy hà tất phải nói nhiều làm gì. Đợi lát nữa đại nhân đi phục mệnh với Hoàng hậu, xin hãy thay bản cung gửi lời vấn an, cứ nói là bản cung tất thảy đều ổn.”
Hắn nói: “Hoàng hậu nương nương được Hoàng thượng nhờ cậy, không dám lơ là qua loa với nương nương và thai nhi trong bụng, thường xuyên triệu vi thần tới hỏi han tình hình.”
Tôi đưa mắt liếc hắn, chậm rãi nói: “Đại nhân biết cần phải ứng phó thế nào là được.”
Sau khi trò chuyện một hồi, tôi lại hỏi: “Vết bỏng trên tay My Trang tỷ tỷ chắc cũng khỏi rồi, Ôn đại nhân đã đưa Thư ngân giao cho tỷ tỷ dùng rồi chứ? Hiệu quả thế nào?”
Trên mặt lộ ra một tia buồn bã, Ôn Thực Sơ tiện miệng nói: “Đỡ hơn nhiều rồi!” Hắn do dự một chút, cuối cùng không nói gì thêm, chỉ bảo vết thương của My Trang kín miệng rất nhanh, còn về việc Thư ngân giao có hiệu quả hay không thì không nhắc tới. Sau đó, hắn lại cẩn thận dặn dò thêm một câu: “Sau này, nếu An Phương nghi có đưa vật gì tới cho nương nương, xin nương nương hãy để vi thần kiểm tra trước rồi hãy dùng.”
Nhìn điệu bộ ân cần dặn dò của hắn, lại liên tưởng tới vẻ mặt không yên tâm của hắn ngày đó khi tôi đưa Thư ngân giao cho My Trang, trái tim tôi bất giác nhảy dựng lên, cảm thấy hết sức bất an.