
a đám học trò nhí đang ngồi hí hoáy làm bài trong im lặng. Nguyên đưa tay véo môi, nghĩ ngợi một lúc rồi phân vân đáp:
– Khó nói lắm. Tao cảm thấy không khí của lớp học này có điều gì đó rất khác thường.
Kăply nhấp nhổm hỏi:
– Bây giờ sao? Tụi mình có nên vô không?
– Vô chứ. Thầy N’Trang Long đã dặn rồi mà. – Nguyên đáp giọng quả quyết, nhưng nếu nhìn kỹ sẽ thấy nó vừa nói vừa nắm chặt hai tay để tự trấn an, cứ như thể nó và Kăply sắp xông vào sào huyệt của sứ giả Basil.
Bọn học trò lớp Sơ cấp 1 có vẻ như không trông thấy Nguyên và Kăply đang dè dặt đặt chân qua ngưỡng cửa. Hàng chục cái đầu vẫn cắm cúi trên những cuốn tập đang mở trước mặt, làm như đối với bọn chúng trên đời này hổng có gì hấp dẫn hơn là làm bài tập tại lớp và thái độ trông rất sinh viên của bọn nhóc hỉ mũi chưa sạch này khiến Nguyên và Kăply khó khăn lắm mới không phá ra cười.
Hai đứa lặng lẽ nhích dần về phía bàn giáo viên, sợ sệt một cách không thể giải thích được. Lớp học im ắng đến bất thường khiến lưng mỗi đứa nổi đầy gai ốc, tụi nó càng thấy rờn rợn hơn nữa khi đột nhiên bắt gặp trong lòng mình cảm giác có một ánh mắt nào đó đang nhìn tụi nó chằm chằm, và như thỉnh thoảng vẫn xảy ra, tụi nó thấy khoảng cách từ ngưỡng cửa đến chỗ chiếc bàn sao mà xa lăng lắc.
Vừa đụng được những đầu ngón tay vào mép bàn (cảm giác rõ rệt như sờ vào ổ điện), Nguyên và Kăply lật đật phóng vù ra cửa, lao xuống sân và cắm cổ phóng thục mạng về phía ngọn tháp.
Phải nói là chưa bao giờ Nguyên và Kăply ngạc nhiên về mình đến thế: tụi nó trèo nhanh khủng khiếp lên những bậc thang, siêu nhất là không vấp té cái nào và cho đến khi tụi nó đứng trước chiếc cầu thang đá đang từ từ nhấc lên (chắc nụi là theo lệnh của thầy N’Trang Long), cả hai cảm thấy ngực mình đang phồng lên xẹp xuống gấp gáp, còn đôi chân rõ ràng là đang muốn làm cái điều tụi nó không muốn chút nào là sụm xuống quách cho rồi.
– Vô đi tụi con!
Thầy N’Trang Long nhìn ra cửa, nhẹ nhàng nói, không để ý đến chuyện hai đứa học trò sắp sụm bà chè tới nơi.
Nguyên tập tễnh lê bước qua ngưỡng cửa, hổn hển hỏi:
– Họ chưa xuống tới hả thầy?
– May là tụi con về vừa kịp. – Thầy N’Trang Long đưa tay xoa cằm và thở đánh phào một cái – Bọn họ đã tới cổng trường rồi đó.
Thầy chỉ tay vô góc phòng phía trong, chỗ hôm trước vẫn treo cái báo động kế, thủng thỉnh nói:
– Tụi con ngồi chỗ đó. Nhớ không được gây ra bất cứ tiếng động nào đó nha.
Kăply quét mắt về phía góc phòng trống trơn rồi quay lại nhìn thầy N’Trang Long:
– Ngồi bệt dưới đất hả thầy?
– Ngồi trên ghế đàng hoàng chớ con.
– Ghế đâu mà ghế hả thầy. Con hổng thấy…
Vừa nói Kăply vừa ngoảnh đầu về phía góc phòng lần nữa và lần này thì nó á khẩu luôn: Có hai chiếc ghế mới cáu không biết hiện ra từ lúc nào, đang nằm chình ình ở đó như sẵn sàng phản đối sự nhận xét vội vã của nó.
Nhưng Kăply làm như rất khoái chứng tỏ mình là thằng nhóc không bao giờ tự hài lòng. Vừa đặt mông lên ghế, nó đã bật ngay dậy:
– Không được rồi, thầy ơi.
– Cái gì không được hả con?
– Chỗ này trống huơ trống hoác à. Bộ thầy nghĩ mấy người kia họ đui hết hay sao? – Kăply nhăn nhó nói giọng điệu chẳng lịch sự gì hết.
– Con yên tâm đi. – Thầy N’Trang Long tỉnh bơ – Trong vòng một tiếng đồng hồ, trừ thầy ra, không ai nhìn thấy các con đâu.
Nguyên và Kăply lập tức liếc xuống cơ thể mình, thấy mọi thứ đều lồ lộ, hổng giống chút xíu nào với lúc tụi nó mặc áo tàng hình của Suku. Bán tín bán nghi, Kăply ngước mặt lên, nhưng lần này nó chưa kịp cất tiếng đã giống như người bị đấm vào miệng: từ ngoài cửa ba bóng người nối nhau xộc vào phòng như ba cơn lốc.
Mặc dù không hề có ý chế nhạo cách phục sức sặc sỡ của những người mới đến, Nguyên và Kăply vẫn có cảm tưởng họ mới vừa tách ra khỏi một chiếc cầu vồng. Hai đứa phải chớp chớp mắt mất một lúc mới phân biệt được các vị khách quý với những chiếc mặt nạ lòe loẹt treo đầy trên tường. Lão già đi trước mặt tròn quay, dáng điệu phục phịch như thể lão không bà con với sứ giả Buriam thì chắc chắn là anh em với lão Bolorađam. Chiếc áo thụng màu cam chói mắt của lão bị cái bụng tổ chảng độn lên một cục ngay chính giữa, người giàu tưởng tượng rất có thể nghĩ là lão đang giấu một quả dưa hấu trong đó.
Nguyên và Kăply đoán cái khối thịt đồ sộ này là Bộ trưởng Bộ giáo dục Kan Kuru, bởi vì người đi phía sau trẻ hơn một chút, người tầm thước, chiếc áo chùng màu lam được cắt rất vừa vặn như thể đặt may từ một cửa hiệu thời trang; căn cứ vào những thớ thịt trên gò má không ngừng giần giật, có thể đoán ông này suốt đời sống trong căng thẳng, mặc dù nếu không có chiếc huy hiệu Cục an ninh gắn trước ngực áo, khó có thể tin ông ta là Cục trưởng Ama Moto.
Nhưng Nguyên và Kăply không ngạc nhiên về hai người đi trước bằng người đi sau rốt: thám tử Eakar. Từ hồi quen biết nhà thám tử đến nay, chưa bao giờ tụi nó thấy ông mặc trang phục gì ngoài chiếc áo chùng đen quen thuộc, và nghiêm túc mà nói, chiếc áo chùng đen thích hợp với dáng người gầy gò và chòm râu dê của ông một cách kỳ lạ. Cả Nguyên lẫn Kăply đều tin tưởng chắc nụi rằng màu đen chí