
Mỗi tay ông cầm một chiếc đinh dài, cứ đi một đoạn ông lại dang tay gõ mạnh hai cây đinh vào nhau, trông như thể thầy pháp đang làm phép. Những âm thanh leng keng phát ra từ hai chiếc đinh không vang xa lắm nhưng đủ khiến những người đi đường ngoảnh cổ nhìn và cứ mỗi lần như vậy ông lại đập hai cây đinh vào nhau mạnh hơn nữa như để gây sự chú ý.
Bọn trẻ chăm chú dõi mắt vào người đàn ông quái dị, nghĩ là ông bị điên và khi ông lướt ngang qua trước chỗ tụi nó nấp thì mắt đứa nào đứa nấy trợn ngược lên như thể thấy ma.
Rõ ràng trên chiếc đầu nhẵn thín của ông đang chạy dài một hàng chữ kẻ bằng thứ gì đó đỏ lòm ngó giống như là máu. Nhưng sự kiện đó không làm bọn Kăply đứng tim bằng nội dung của những hàng chữ đang phơi ra lồ lộ trên đầu ông:
NGÀY TẬN THẾ SẮP ĐẾN
NGÀI SẮP QUAY LẠI
TẤT CẢ CHỈ LÀ BẮT ĐẦU
– Cái gì thế nhỉ? – K’Tub run run hỏi, phải vất vả lắm nó mới nặn được bốn từ ngắn ngủn vào tai Păng Ting.
– Chắc chắn đây là thông điệp của Bastu. – Păng Ting thì thào đáp, giọng nhỏ xíu như phát ra đằng mũi.
K’Tub gào lên trong cổ họng:
– Nhưng người đàn ông này là ai?
– Dĩ nhiên hắn là tay chân của phe Hắc Ám. – Êmê nói, giọng thiểu não như thể đang đọc điếu văn cho xứ Lang Biang – Cũng có thể hắn là một hóa thân khác của Balibia hoặc Buriăk.
Bọn trẻ sững sốt chìa những bộ mặt trắng bệch vào mắt nhau, gần như không đứa nào tin được trùm Hắc Ám lại cả gan đến vậy và khi không thể không tin thì tụi nó cảm thấy lo lắng khủng khiếp. Hổng lẽ trùm Bastu đã bắt tay với lão Ôkô Na? Nguyên tự hỏi và thấy ruột gan như có ai xoắn lấy. Nó không muốn đẩy sự phỏng đoán của mình đi quá xa nhưng vẫn không làm sao ngăn được ý nghĩ rằng chính Ôkô Na đã tích cực dọn đường cho Bastu quay lại bằng cách nhen lên không khí hoảng loạn mấy ngày nay. Và chỉ khi được lão quái Ôkô Na trợ lực, Bastu mới dám ngang nhiên cho thuộc hạ xuất hiện công khai giữa ban ngày như vậy. Nghĩ ngợi một lúc, Nguyên không tìm ra cách giải thích nào xác đáng hơn vì vậy càng nghĩ nó càng cảm thấy người nó như bị tiêm thuốc mê, đầu óc chìm dần vào chỗ tối tăm, mụ mị.
Nguyên chỉ choàng tỉnh thì Kăply kéo tay nó:
– Hắn đi xa rồi. Đuổi theo đi!
Nhưng bọn trẻ vừa nhỏm người dậy đã vội ngồi thụp ngay xuống, Cả đống phù thủy đeo huy hiệu của Cục an ninh trước ngực đang lướt vèo vèo qua trước mắt tụi nó.
Dẫn đầu đám này, như thường lệ là chòm râu của thám tử Eakar.
Chương 4
BẢY MIẾNG DA DÊ
Lâu đài Sêrôpôk được xây dựng từ bảy trăm năm trước, là một công trình kỳ vĩ và kiên cố, từ xa trông như một tòa thành lớn với những tháp canh lố nhố giữa trời xanh. Các bức vách ngoài cùng của lâu đài đều dày trên năm mét, có cổng lớn cho xe ngựa ra vô mặc dù tất cả phù thủy ở đây không ai dùng tới phương tiện di chuyển cổ xưa này. Cũng như mọi phù thủy ở xứ Lang Biang, đám thuộc hạ của Ama Êban vẫn khoái trò độn thổ hơn, vừa nhanh vừa kín đáo. Xe ngựa có lẽ là loại phương tiện có từ thời các giáo chủ đời trước và chắc là bắt chước thói quen của các phù thủy đến từ xứ Mũi Lõ.
Hồi mới xây lên, lâu đài Sêrôpôk chắc cũng không giống một thành lũy đến vậy. Có lẽ sau nhiều lần bị phe Hắc Ám tập kích, giáo phái Madagui đã tự bảo vệ bằng cách dần dần biến thánh địa của mình thành một pháo đài thứ thiệt với vô số đài quan sát và chắc nụi là họ đã ếm đủ thứ bùa như bùa Bất khả xâm phạm, bùa Khùng và hàng trăm thứ bùa ác liệt khác.
Muốn đến chỗ giáo chủ Ama Êban phải đi qua ít nhất là mười lăm lớp cửa, giải ít nhất mười lăm loại bùa ếm khác nhau, đó là nói lối đi ngắn nhất và với điều kiện kẻ đột nhập không bị bất tỉnh hay bị tan xác dọc đường. Nếu không chết, kẻ đó mới lọt qua được cánh cửa đá cuối cùng chạm trổ vô số mãnh hổ ở nhiều tư thế khác nhau, đặc biệt là trông sinh động như một bầy cọp sống.
Lúc bọn trẻ lâu đài K’Rahlan đang nằm mọp ở hẻm Râu Ngô thì bà Êmô đang đứng trước cánh cửa đó, cánh cửa thứ mười lăm, tay vuốt lại vạt áo chùng, một động tác hoàn toàn không cần thiết vì các nếp áo của một phụ nữ đỏm dáng như bà bao giờ cũng phẳng phiu như vừa lấy từ tiệm giặt ủi về.
Bà nhìn lên những hình vẽ sống động trên cánh cửa, đã mấy lần tính mấp máy môi nhưng rồi bà lại bỏ dở câu thần chú để nấn ná thêm một lúc trước khi diện kiến giáo chủ của bà. Bà biết Ama Êban lúc này đã gần như hết kiên nhẫn với bà và pháp sư K’Tul. Đã mười mấy năm rồi, bà và ông K’Tul ngày đêm âm thầm lục soát không sót một xó xỉnh nào của lâu đài K’Rahlan, vậy mà vẫn không hoàn thành được sứ mạng mà Ama Êban giao phó. Chính vì lý do đó mà lần nào trở về lâu đài Sêrôpôk, bà cũng bắt gặp mình đứng tần ngần trước cánh cửa mở vào bí thất của giáo chủ.
Nhưng dĩ nhiên bà biết là bà không thể đứng chết lặng ở đó mãi. Cuối cùng, không biết là lần thứ mấy, bà đưa tay vuốt lại nếp áo, chỉnh lại cái nón chóp vốn đã nằm rất ngay ngắn trên đầu, rồi hắng giọng như để xốc lại bản thân trước khi quyết định lầm rầm niệm chú.
Cánh cửa đá lập tức xịch qua một bên, kéo theo vô số mãnh hổ vào bóng tối để mở ra trước mắt bà khung cảnh trang nghiêm với hàng dãy cột đồng cũng chạm hình cọp với những chi