
n thiện.
– Một Hội Quốc Liên mới! – Poirot mỉm cười. Rồi trở lại nghiêm túc, anh thêm:
– Rất mừng là Desjardeaux cuối cũng đã được thuyết phục. Nào! Chúng ta sẽ bắt đầu, hay đúng hơn, tôi bắt đầu. Hastings, tôi muốn anh ở lại đây, không muốn anh bị nguy hiểm.
Tôi phản đối cực lực, Poirot đành chịu.
Trên chuyến tàu đưa chúng tôi đi Paris, anh thú nhận là rất vui có tôi bên cạnh.
– Anh sẽ đóng một vai trò, vai quan trọng! Tôi có nghĩa vụ báo anh biết, nếu không nghe tôi, chiến dịch này sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
– Có nguy hiểm ư?
– Anh bạn thân mến, dính đến bọn Bốn Người bao giờ cũng nguy hiểm.
Tới Paris, chúng tôi ra ga miền Đông. Lúc này Poirot mới cho tôi biết sẽ đi Boljano, rồi tới vùng Tyrol nước Ý.
Nhân lúc vắng mặt Harvey chạy đi đâu đó, tôi hỏi tại sao Potrot gán cho tôi cái thành tích tìm ra cơ hội họp của đối phương.
– Vì đúng là thế mà! Bằng cách nào Ingles biết được, tôi không rõ. Nơi chúng ta sắp đến gọi là Karersee, mà tên mới người Ý gọi là “Largo de Carezza”. Bây giờ anh hiểu chưa, cái mà anh nghe nói là “Carezza”, “Cara Zia” và “Largo” ấy. Còn “bàn tay”, chắc là anh tưởng tượng ra thôi, trừ khi tên gia nhân muốn nói đến “Bàn tay bọn Bốn Người”
– Tôi chưa từng nghe nói Karersee là nơi nào.
– Thì tôi bảo mà, người Anh không thuộc địa dư. Đó là một nơi tuyệt đẹp, nhiều ngươi biết. Ở độ cao một ngàn hai trăm mét trên dãy Dolosmites.
– Và bọn Bốn Người hội họp ở đó?
– Đại bản doanh của chúng ở đấy. Lệnh báo động đã phát, nên chúng chỉ mong được biến nhanh. Từ trong lòng pháo đài nằm sâu trong núi, chúng tiếp tục phát đi mệnh lệnh. Tôi đã tìm hiểu, đó là một mỏ đá hiện đang khai thác. Dường như đây là một cơ nghiệp của Ý, nhưng thực ra nó thuộc Abe Ryland. Tôi cam đoan là ở đó, trong lòng núi, có một pháo đài ngầm. Từ nơi ẩn náu này, bọn chỉ huy ra lệnh bằng vô tuyến điện. Chúng có hàng ngàn tay chân ở mỗi nước, sẵn sàng thi hành. Chính từ cái pháo đài dãy Dolomites này sản sinh những tên ghê gớm, hay đúng hơn chúng có thể xuất hiện, nếu Hercule Poirot này không ra tay!
Harvey trở lại, làm câu chuyện giữa chúng tôi gián đoạn. Chúng tôi tới Boljano vào giữa trưa, và lại lên xe để leo tới Karersee. Trời nóng, nhưng Poirot ăn bận trùm kín đến mặt: anh đề phòng gì, hay sợ bị cảm? Chuyến đi kéo dài hai tiếng. Phong cảnh thật sự tuyệt vời. Sau khi qua một thung lũng màu mỡ rộng hàng cây số, chúng tôi lên dốc tới những chòm núi đá. Mỗi bước ngoặt lại mở ra một viễn cảnh mới. Con đường khúc khuỷu len lỏi giữa các khối đá hiểm trở. Cuối càng, ô tô dừng trước một khách sạn lớn, có vị trí tuyệt đẹp.
Họ đã giữ cho chúng tôi những phòng trông ra núi: cảnh đỉnh núi đá với những sườn phủ đầy thông thật thần tiên.
– Ở đây ư? Poirot khẽ hỏi.
– Phải – Harwey đáp – Có một nơi gọi là “Mê cung đá”; toàn những tảng đá khổng lồ, hình thù quái đản! Mỏ đá ở phía phải, nhưng tôi đã nghĩ là lối vào ở ngay trong mê cung.
Poirot ra hiệu cho tôi:
– Lại đây, ta xuống sân thượng, hưởng ánh nắng.
– Anh thấy thế có nên không?
Anh nhún vai thay trả lời.
Ánh sáng chói chang, mắt tôi khó chịu đựng. Chúng tôi dùng một tách cà phê rồi lên phòng để xếp đồ đạc. Poirot có vẻ như đắm chìm trong giấc mơ. Một hai lần, thấy lắc đầu và thở dài.
Lúc xuống tàu ở Boljano, tôi để ý có một người khách đợi xe. Điều làm tôi để ý, là người ấy cũng ăn bận trùm kín, hơn cả Poirot! Ngoài chiếc áo khoác ngoài thùng thình và chiếc khăn len trùm mũi, người ấy còn đeo kính xanh mắt to. Tôi nghi là một tên tay sai của Bộ Tứ.
Tôi nói điều đó với Poirot, nhưng anh chẳng có vẻ quan tâm. Ít lâu sau, tôi thông báo với anh là người khách nọ đang lảng vảng trước khách sạn, tôi nhìn qua cửa sổ và trông thấy.
Mặc tôi nói, Poirot vẫn đòi xuống phòng ăn, và chúng tôi được một ngồi vào bàn cạnh cửa sổ. Chúng tôi ngồi chưa ấm chỗ, thì tiếng quát mạnh và tiếng bát đĩa vỡ loảng xoảng vang lên: một cậu bồi bàn vụng về đã đổ cả một đĩa thức ăn lên vai một thực khách ngồi ở bàn cạnh chúng tôi.
Người quản lý vội vàng chạy đến xin lỗi rỗi rít.
Lát sau, khi anh bồi bàn đó đến phục vụ chúng tôi, Poirot nói nhỏ:
– Thật là sự cố đáng tiếc, song lỗi không phải tại anh.
– Ông đã trông thấy? Vâng, đúng không phải tại con. Ông ấy đột nhiên đứng chồm lên, cứ như là đang lên cơn gì vậy!
Một ánh mắt ranh mãnh loé lên trong mắt Poirot. Cậu bồi bạn đi rồi, anh ghé vào tai tôi:
– Anh thấy chưa, hiệu quả của việc tôi xuất hiện bằng xương bằng thịt.
– Sao… Anh nghĩ là?
Tôi không kịp nói hết câu, Poirot đã đặt tay lên đầu gối tôi, nói nhẹ, nhưng hơi xúc động:
– Nhìn xem, cái tật hắn vo viên bánh mì! “Số Bốn” đó!
Đúng thế. Người khách ngồi bên cầm một mẩu ruột bánh di di trên bàn.
Tôi quan sát kỹ lưỡng: bộ mặt sàm sạm, bì bì có một vẻ không lương thiện. Những nếp nhăn dưới mắt, đi từ cánh mũi đến hai bên mép càng tăng vẻ xấu xí. Hắn trạc từ băm nhăm đến bốn nhăm và không giống bất cứ một nhân vật nào hắn từng đóng vai. Nếu Poirot không chỉ cho tôi cái tật của hắn, tôi sẵn sàng thề là chưa bao giờ gặp hắn.
– Nó đã nhận ra ta – tôi khẽ nói – Lẽ ra anh không