
g bao đều dùng đá chát xi măng đắp thành, nóc nhà là mấy thanh gỗ thô sần sùi gối lại với nhau, bên trên trải một lớp cỏ lác thật dày, thân cỏ rất cứng. Giữa nhà còn có mấy chiếc cột gỗ sần sùi, to như cái chậu để đỡ cho nóc nhà.
Chủ quán đốt lửa, tôi phải ngồi sưởi một lúc lâu mới thấy ấm áp trở lại.
Đồ ăn rất phong phú: mấy chiếc bánh nướng, một chậu cơm bốc, bánh tháp, thịt bò xào khoai tây cà chua, mì Tân Cương. Chúng tôi ăn ngấu nghiến như hổ đói, chỉ một lát đã tiêu diệt sạch sẽ cả bàn thức ăn đầy ự. Ăn xong, chủ quán dẫn chúng tôi về phòng ngủ. Giường ghép kiểu phía Bắc, bên dưới xếp đá, rồi phủ thêm một lớp cỏ, trải thảm lên trên vậy là thành giường. Ông chủ để lại mấy người đàn ông chúng tôi trong phòng rồi dẫn Mũ Bò qua phòng dành cho nữ. Được một lát thì chợt nghe có tiếng kêu thảm thiết vang lên. Mũ Bò chạy vụt ra ôm chặt lấy anh chàng khảo cổ, sắc mặt trắng bệch cắt không ra giọt máu. Mấy người cùng chạy qua xem, thì thấy ở góc giường có một lỗ lớn, một con chuột to tướng thò đầu ra nhìn chúng tôi, rồi quẫy đuôi một cái, lừ lừ chui vào lỗ. Cô nàng sống chết thế nào cũng không dám ngủ. Anh chàng khảo cổ đành dẫn cô nàng ra ngoài cắm trại, còn tôi và tài xế thì ngủ trong phòng.
Sau khi trừ đi nạn chuột, và cả những con côn trùng nhỏ lương thiện không cắn người nấp trong tấm nệm cỏ, căn phòng và chiếc giường lại tiếp tục thực hiện công năng của nó. Không gian thô lậu sơ sài mang theo vẻ thần bí lạ thường, làm tôi chợt nhớ đến bài hát “Hotel California”. Một lúc sau thì tiếng ngáy khò khè như lợn rống của tay lái xe vang lên. Tâm cơ máy động, tôi bèn khẽ huýt sáo theo điệu nhạc “Hotel California”, tay tài xế liền yên lặng trở lại một cách thần kỳ. Huýt sáo được hết bài thì miệng đã mỏi nhừ, không khép lại được. Nằm mãi mà chẳng thấy buồn ngủ, tôi bèn lấy cuốn “Con người và mặt đất” của Antonie de saint expupery ra, bật ngọn đèn nhỏ ở đầu giường ra đọc. Trong sách có một câu như thế này:
“Kiến thức mà mặt đất dạy chúng ta còn sâu rộng hơn bất cứ sách vở nào.”
Không nén nổi cảm xúc dâng trào trong lòng, tôi đứng dậy mặc quần áo, đi ra ngoài.
Sa mạc Gobi về đêm hoang vắng tiêu điều còn hơn ban ngày. Chỉ có những ngôi sao đang vô tư dâng hiến chút ánh sáng nhỏ nhoi chỉ đủ để mang lại tín niệm cho con người, nhưng lại chẳng hề có chút ý nghĩa gì với trái đất này cả !
Chợt có một ý nghĩ đên rồ, muốn đi, đi mãi về phía đó.
Có điều lý trí tôi vẫn còn đủ tỉnh táo. Đi về phòng, bật máy nghe nhạc lên nghe mấy bài của Egima, rồi chìm vào giấc ngủ.
Đối với tôi, rốt cuộc ai mới là “mặt đất” đây ?
###
Buổi trưa hôm đó, xe hàng đến một thị trấn nhỏ hoang vu, dừng lại để thêm nước.
Thị trấn này rất nhỏ, chỉ có mấy gian nhà đá, nằm rải rác trên sa mạc mênh mông, lưa thưa lác thác, nhìn có cảm giác như là các núi lửa trên bề mặt mặt trăng vậy. Ở sa mạc miền Tây này giờ chỉ còn rất ít những thị trấn như vậy.
Tay lái xe xách thùng nước nhảy xuống trước. Chúng tôi cũng xuống theo, vươn tay vươn chân cho giãn gân cốt, rồi đi dạo một vòng xung quanh thị trấn. Thị trấn này có một quán ăn nhỏ, bên trong có một ông lão người Duy cởi trần, tay phe phẩy quạt, mắt lim dim gật gù. Gần đó là một xưởng sửa xe, bác thợ cả đội cái mũ nhỏ của người tộc Duy đang lắp lốp xe, thi thoảng lại ngước mắt lên nhìn chúng tôi. Cạnh xưởng xe là một quán trọ nhỏ, một người đàn bà đầu đội khăn thêu đang bế con ngồi trước cửa, ánh mắt thờ ơ tuyệt vọng. Bên cạnh bàn bi a cách đó không xa lắm, có hai thanh niên người Duy đang ngắm nghía đường cơ.
Một ông già người Duy đang ngồi xếp bằng trên chiếc ghế dài ven đường, nắm mắt chơi đàn Donbura, âm thanh cót ca cót két khó nghe truyền đi khắp thị trấn nhỏ. Xung quanh cát bụi bay tứ tung, rơi cả vào cái bát to để bên cạnh ông già. Tôi ngồi xổm cạnh đó nghe ông chơi đàn, còn Mũ Bò thì kéo anh chàng khảo cổ đi ra chỗ bàn bi a.
Ông già đàn một lúc rồi dừng lại lấy thuốc ra hút, cầm bát nước lên, thổi bay cát bụi bên nổi bên trên đi, rồi cẩn thận uống mấy ngụm, sau đó đặt bát xuống, súc súc miệng, đưa mắt nhìn tôi cười cười, đưa cây đàn Donbura cho tôi. Tôi đón lấy, thử chơi như chơi đàn ghita, định đánh một bài “A La Mộc Hãn” nhưng quả thực đàn ghita và Donbura là hai loại nhạc cụ hoàn toàn khác nhau, muốn điều âm cũng không biết làm thế nào. Tôi đành trả lại đàn cho ông già. Không ngờ ông già như đọc được ý nghĩ của tôi, bật ngón tay chơi ngay bài “A La Mộc Hãn”, tất nhiên là vẫn cực kỳ khó nghe. Ông già nhìn tôi bật cười khanh khách, tôi cũng cười cười đáp lại, vừa cười vừa đếm xem trong miệng ông còn lại mấy chiếc .
Đứng dậy sang chỗ bàn bi a.
Anh chàng khảo cổ đưa cây cơ cho tôi. Mặt bàn mấp mô, rất khó đánh. Tôi cúi sát người chọc một gậy. Cậu thanh niên tộc Duy đánh một quả bi màu vào lỗ, nhìn tôi cười cười, dáng vẻ rất thật thà, rồi lại đánh một cơ nữa, bi không lọt lỗ. Đột nhiên một trận gió nổi lên làm cát bụi bay tứ tán. Tôi cầm lấy cây cơ, cúi người đánh tọt một quả bi khoang vào lỗ, rồi lại đánh thêm một quả nữa lọt lỗ, điều chỉnh hô hấp, đẩy quả bi khó nhất ở góc bàn vào lỗ, bi